Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Từ ngữ chỉ tên gọi các loài cá, tôm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ HOA HIÊN
TỪ NGỮ CHỈ TÊN GỌI CÁC LOÀI CÁ, TÔM
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM HÙNG VIỆT
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
THÁI NGUYÊN - 2010
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ HOA HIÊN
TỪ NGỮ CHỈ TÊN GỌI CÁC LOÀI CÁ, TÔM
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Hoa Hiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong số những thể loại văn học dân gian Việt Nam thì ca dao, tục ngữ là
thể loại phong phú cả về số lƣợng, nội dung, chủ đề và đƣợc nhiều thế hệ các
nhà nghiên cứu văn hoá, văn học, ngôn ngữ học,… đi sâu nghiên cứu. Hơn
hẳn mọi thể loại sáng tác khác của văn học dân gian, ca dao, tục ngữ là một
loại hình nghệ thuật ngôn từ đƣợc nhiều ngƣời biết đến, là nguồn tài liệu vô
cùng quý báu và phong phú có thể khai thác tìm hiểu từ nhiều góc độ, trong
đó có việc tìm hiểu từ góc độ ngôn ngữ học. Đề tài này là sự tiếp tục tìm hiểu
ca dao, tục ngữ nhƣng từ phƣơng diện ngôn ngữ, văn hoá.
Trong hệ thống từ ngữ mà ca dao , tục ngữ sử dụng , ngoài việc dùng
nhƣ̃ng từ ngữ chỉ trăng , hoa, chim muông, cỏ cây,… thì hệ thống từ ngữ chỉ
các loài cá, tôm cũng khá phổ bi ến. Trƣớc đây đã có một số công trình nghiên
cứu về biểu tƣợng hoa, biểu tƣợng trăng, biểu tƣợng trang phục, biểu tƣợng
con cò, con bống,… song chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về biểu
tƣợng cá tôm nói chung trong kho tàng ca dao , tục ngữ Việt Nam. Đề tài này
đi vào tìm hiểu từ ngữ chỉ tên gọ i các loài cá, tôm trong ca dao , tục ngữ Việt
Nam là nhằm góp phần làm rõ vai trò của lớp tƣ̀ ngƣ̃ này về các mặt ngữ
pháp, ngữ nghĩa và khả năng biểu hiện hình ảnh , tên gọi của nó trong ca dao,
tục ngữ.
Với những lí do trên đây , chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Từ ngữ chỉ
tên gọi các loài cá, tôm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam”, những mong góp
một tiếng nói xét tƣ̀ bình diện ngôn ngƣ̃ họ c để tìm hiểu thêm giá trị của ca
dao, tục ngữ trong phạm vi lớp tƣ̀ ngƣ̃ đang xem xét .
2. Lịch sử vấn đề
Đi vào tìm hiểu các công trình nghiên cứu ca dao , tục ngữ Việt Nam, đặc
biệt là việc nghiên cứu biểu tƣợng nghệ thuật trong ca dao, tục ngữ Việt Nam,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5
chúng tôi thấy: Việc nghiên cứu biểu tƣợng đã và đang đƣợc nhiều ngƣời
quan tâm tìm hiểu, phát hiện nhiều điều mới mẻ từ thế giới biểu tƣợng. Đã có
nhiều nhà nghiên cứu về ca dao, tục ngữ Việt Nam với qui mô lớn nhƣ
Nguyễn Xuân Kính, Vũ Ngọc Phan, Chu Xuân Diên, Vũ Dung, Vũ Thị Thu
Hƣơng, Trƣơng Thị Nhàn, Nguyễn Thị Ngọc Điệp… Ở từng công trình
nghiên cứu các tác giả đã tìm hiểu ca dao, tục ngữ từ nhiều góc độ: văn hoá
dân gian, thi pháp học, văn hoá học, ngôn ngữ học…
- Trƣớ c hết phải kể đến cuốn “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, của
tác giả Vũ Ngọc Phan. Tác giả đã tìm hiểu chung về nội dung và hình thức
của từng thể loại, và thống kê các câu tục ngữ, ca dao theo các chủ đề khác
nhau . Với cuốn sách này, tác giả là ngƣời đầu tiên đề cập trực tiếp đến vấn đề
biểu tƣợng trong ca dao. Tác giả cũng đã dành một phần tìm hiểu về biểu
tƣợng con cò, con bống. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã nhấn
mạnh “Một đặc điểm trong tư duy hình tượng của nhân dân Việt Nam về cuộc
đời; đời người với đời con cò và con bống” [Tr.72]. Ngƣời nông dân lao động
thấy hình ảnh của mình nhƣ cái cò nên đã mƣợn đời sống của con cò để biểu
hiện đời sống của mình. Con cá bống cũng đƣợc nói nhiều trong ca dao, dân
ca nhƣng không giống con cò vì con cò có thể là hình ảnh của cả trai lẫn gái
còn con cá bống chỉ có thể là hình ảnh ngƣời thiếu nữ hay ngƣời thiếu phụ.
- Hà Công Tài với bài “Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian” Và Bùi
Công Hùng với bài “Biểu tượng thơ ca” (1988) đã khai thác rõ hơn về khái
niệm nghệ thuật và đi sâu phân tích một số biểu tƣợng trong ca dao, trong đó
có biểu tƣợng trăng.
- Trƣơng Thị Nhàn với bài viết in trên tạp chí văn hoá dân gian “Tìm
hiểu ngôn ngữ nghệ thuật ca dao qua một số tín hiệu thẩm mĩ” (1992). Tác
giả đã nêu ý nghĩa biểu tƣợng của các vật thể nhƣ khăn, áo, giƣờng, chiếu,…
và đi sâu tìm hiểu tín hiệu thẩm mĩ sông. Ở bài viết này tác giả kết luận: “Khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6
năng biểu trưng hoá nghệ thuật của các vật thể trong ca dao góp phần tạo
nên một nét đặc trưng rất cơ bản. Sông là một yếu tố mang ý nghĩa thẩm mĩ
giàu sức khái quát nghệ thuật, tham gia vào hệ thống biểu hiện của ngôn ngữ
nghệ thuật ca dao, sông có giá trị của một tín hiệu thẩm mĩ” [Tr. 62] .
- Nguyễn Xuân Kính với công trình nghiên cứu “Thi pháp ca dao”
(1992) đã dành hẳn một chƣơng để tìm hiểu các biểu tƣợng nhƣ cây trúc, cây
mai, hoa nhài, con bống, con cò và so sánh ý nghĩa của một số biểu tƣợng
động vật trong ca dao và văn học viết. Tác giả đặt ra một vấn đề cần đƣợc
quan tâm khi xác định ý nghĩa biểu tƣợng: “Tuy cùng viết về một biểu tượng
nhưng hai dòng thơ dân gian và bác học đã miêu tả khác nhau, cấp cho nhau
những ý nghĩa khác nhau” [Tr.350].
- Cũng là tác giả Trƣơng Thị Nhàn, với luận án phó tiến sĩ “Sự biểu đạt
bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ không gian trong ca dao” (1995) đã tiếp
tục đi sâu nghiên cứu một loạt biểu tƣợng không gian nhƣ rừng, núi, sông,
ruộng, bến, đình, chùa... Tác giả đã góp một tiếng nói ở một phƣơng diện mới
trong lĩnh vực nghiên cứu biểu tƣợng ca dao.
- Nguyễn Thái Hòa với công trình nghiên cứu công phu “Tục ngữ Việt Nam
- Cấu trúc và thi pháp” (1997) đã chú ý đến sự sáng tạo của tục ngữ với tƣ cách
là một tổng thể thi ca nhỏ nhất. Tác giả chú ý tới hƣớng tìm hiểu về phƣơng thức
chuyển nghĩa ẩn dụ nhƣng theo quy chế hoạt động quy chiếu (Mọi hoàn cảnh
giao tiếp có những nét tƣơng đồng với ý thông báo đều có thể suy ra hàm ý
chung, tạo sự chuyển đổi tên sự vật; và ẩn dụ theo khuôn hình so sánh).
- Phạm Thu Yến trong cuốn “Những thế giới nghệ thuật của ca dao”
(1998) đã giành một số trang để khảo sát, nghiên cứu biểu tƣợng trong thơ
ca trữ tình dân gian. Tác giả nghiên cứu biểu tƣợng theo ba vấn đề: ranh
giới giữa biểu tƣợng và ẩn dụ; biểu tƣợng thơ ca dân gian; sự hình thành và
phát triển của biểu tƣợng. Theo nhƣ nhƣ tác giả viết “Những điều trình bày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
trên vẫn mang ý nghĩa mở, ý nghĩa đặt vấn đề chứ chưa phải là sự giải
quyết triệt để”.
- Nguyễn Thị Ngọc Điệp với bài “Tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong
ca dao Việt Nam” (1999) đã phân chia các biểu tƣợng chủ yếu thành ba
nguồn sau:
+ Những biểu tƣợng xuất phát từ phong tục tập quán của con ngƣời
Việt Nam, từ quan niệm dân gian, tín ngƣỡng dân gian: trầu cau, cây đa,
vuông tròn…
+ Những biểu tƣợng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung
Quốc: Thuý Kiều - Kim Trọng, Ngưu Lang - Chức Nữ, dây tơ hồng, ông tơ
bà nguyệt…
+ Những biểu tƣợng xuất phát từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày của
nhân dân: hoa sen, hoa đào, hoa hồng, con cò, con cá, trăng…
Theo sự phân chia của tác giả, biểu tƣợng cá tôm đƣợc hình thành từ
nguồn thứ ba tức là từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày của nhân dân. Cơ sở để
tạo nên các biểu tƣợng chính là hiện thực khách quan . Dựa vào cách phân loại
trên, chúng tôi đã xác định những định hƣớng để triển khai đề tài này .
- Gần đây hơn là những bài viết của một số tác giả trẻ nhƣ Nguyễn
Phƣơng Châm, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Hà Thị Quế Hƣơng, Phan Thị Thuý
Hằng…đã đem đến cho ngƣời đọc nhiều hiểu biết thú vị, đặc biệt cung cấp
cho chúng tôi những thông tin mới để nghiên cứu đề tài.
Qua việc tìm hiểu các công trình khoa học đã kể ra ở trên , có thể thấy các
tác giả đã tập trung thống kê, tìm hiểu các vấn đề về kho tàng ca dao , tục ngữ
Việt Nam khá kĩ . Tuy nhiên chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách có
hệ thống trên phƣơng diện ngôn ngƣ̃ về từ ngữ chỉ tên gọ i các loài cá, tôm
trong ca dao , tục ngữ Việt Nam . Thƣ̣ c tế này là một gợi ý ch o chúng tôi lựa
chọn và bắt tay vào thực hiện đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3.1. Về lí luận
- Mô tả các đặc điểm cấu tạo ngữ pháp của các đơn vị từ vựng chỉ tên gọi
cá tôm trong ca dao, tục ngữ Việt nam
- Chỉ rõ những đặc điểm ngữ nghĩa của tên gọi cá, tôm trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam. Từ đó, chỉ ra nguồn gốc và cách sử dụng tên gọi các loài cá,
tôm của ngƣời dân lao động đƣợc thể hiện tập trung trong ca dao, tục ngữ.
- Tìm ra những biểu hiện cụ thể của bản sắc văn hoá dân tộc trong cách
gọi tên, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh chỉ tên gọi các loài cá, tôm trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam.
3.2. Về thực tiễn
Làm rõ sự hành chức của các đơn vị từ vựng tiêu biểu trong những từ
ngữ, hình ảnh chỉ tên gọi các loài cá, tôm trong ca dao, tục ngữ, góp phần
định hƣớng thiết thực cho việc giảng dạy, học tập ca dao, tục ngữ trong nhà
trƣờng phổ thông.
4. Đối tƣợng và phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn này là lớp tƣ̀ ngƣ̃ chỉ tên gọ i các
loài cá, tôm trong ca dao, tục ngữ ngƣời Việt.
4.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Nguồn tƣ liệu chính là bộ tổng tập Kho tàng ca dao người Việt của
Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật chủ biên (2001), NXB Văn hoá -
thông tin, Hà Nội. Tƣ liệu này gồm 4 tập, đƣợc tuyển chọn từ những lời ca
dao ra đời trƣớc cách mạng tháng Tám. Số câu ca dao đƣợc tập hợp trong bộ
sách này đạt tới 11.825 lời (chƣa kể dị bản). Bộ tổng tập Kho tàng tục ngữ
người Việt của Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002), NXB Văn hóa - thông
tin, Hà Nội. Tƣ liệu này gồm 2 tập, đƣợc tuyển chọn từ những câu tục ngữ từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
xƣa đến nay (1999) với số lời tục ngữ là 16.098 (chƣa kể dị bản). Đây là
những công trình biên soạn qui mô, công phu, khoa học của các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ học. Bên cạnh đó, chúng tôi có sử dụng tƣ liệu về ca dao, tục
ngữ trong Ngân hàng ngữ liệu từ ngữ tiếng Việt của Viện Từ điển học và
Bách khoa thƣ Việt Nam.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lí luận cho luận văn .
5.2. Thống kê, phân loại các từ ngữ chỉ tên gọi các loài cá, tôm trong ca dao,
tục ngữ ngƣời Việt.
5.3. Tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ tên gọi các loài cá, tôm.
5.4. Bƣớc đầu nêu lên những suy nghĩ về vai trò của biểu tƣợng (biểu tƣợng
cá, tôm) trong đời sống của nhân dân lao động thể hiện ở ca dao, tục ngữ
ngƣời Việt.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp sau:
6.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại (thống kê có định hƣớng, phân loại định
lƣợng kết hợp với phân tích định tính): đƣợc sử dụng trong quá trình thu thập
và xử lí tƣ liệu. Luận văn này thu thập và xử lí trên 447 câu ca dao, 260 câu
tục ngữ có từ ngữ chỉ tên gọi cá, tôm.
6.2. Phƣơng pháp phân tích: đƣợc sử dụng trong quá trình phân tích để rút ra
đặc điểm về cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ ngữ, hình ảnh cá, tôm.
6.3. Phƣơng pháp quy nạp: dùng để rút ra những kết luận trong quá trình
nghiên cứu.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng thủ pháp so sánh đối chiếu khi cần thiết để
làm rõ đặc điểm riêng của đối tƣợng đang xem xét.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
7. Đóng góp của luận văn
Lớp từ ngữ chỉ tên gọi các loài cá, tôm trong ca dao, tục ngữ ngƣời Việt
chƣa đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống. Với luận văn này, chúng tôi hi
vọng đây sẽ là công trình đầu tiên xem xét dƣới góc độ ngôn ngữ học một
cách có hệ thống về lớp từ ngữ này.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết
Chƣơng 2: Loài cá, tôm và đặc điểm ngữ pháp của từ ngữ chỉ tên gọi các
loài cá, tôm trong ca dao, tục ngữ ngƣời Việt.
Chƣơng 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ tên gọi các loài cá, tôm
trong ca dao, tục ngữ ngƣời Việt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1 . Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá
1.1.1. Về khái niệm văn hóa
Văn hoá là một hiện tƣợng cổ xƣa nhất của con ngƣời, nó nảy sinh và
phát triển song hành với xã hội loài ngƣời và là sự khác biệt cơ bản nhất của
con ngƣời với phần còn lại của thế giới. Từ “Văn hoá” trong các ngôn ngữ
khác nhau đều có nhiều nghĩa. Hiện nay có hàng trăm định nghĩa khác nhau
về văn hoá. Theo Từ điển tiếng Việt, văn hoá có những ý nghĩa sau đây:
1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong các quá trình lịch sử. Ví dụ: Kho tàng văn hoá dân gian,
văn hoá phương Đông…
2. Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh
thần (nói tổng quát). Ví dụ: Phát triển văn hoá, công tác văn hoá…
3. Tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát). Ví dụ: Học văn hoá, trình
độ văn hoá…
4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Ví dụ:
Sống có văn hoá, ăn nói thiếu văn hoá…
5. Chm. Nền văn hoá của một thời kỳ cổ xưa được xác định trên cơ sở
một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau. Ví
dụ: Văn hóa rìu hai vai, văn hoá gốm màu, văn hoá Đông Sơn…[54] .
Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hoá là hệ thống hiếm có các gía
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt
động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, xã
hội [58]. UNESCO có định nghĩa về văn hoá nhƣ sau: Văn hoá có thể coi là
tổng thể những nét riêng biệt giữa tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc
quy định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống và những quyền lợi cơ
bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín
ngưỡng [65].
Các định nghĩa nêu ra tuy khác nhau về đặc điểm nhƣng có điểm chung là
nói đến văn hoá, nói đến những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời tạo
ra. Còn biểu hiện văn hoá cụ thể thì rất đa dạng: Phải kể đến cả y phục lẫn ẩm
thực, cả lịch sử lẫn triết học, cả nghệ thuật lẫn khoa học, cả trò chơi trẻ con
lẫn tục ngữ, cả khí hậu lẫn phong cảnh, cả kinh tế lẫn văn hoá, cả chính trị lẫn
riêng tƣ và ngay cả những hƣớng dẫn về những tai hại đốn rừng, phá núi…
(Goethe).
1.1.2. Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá
Các nhà khoa học đều thừa nhận rằng giữa ngôn ngữ và văn hoá, ngôn
ngữ dân tộc và văn hoá dân tộc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Chúng tồn tại
và phát triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau.
Trong nghiên cứu xã hội, ngôn ngữ đƣợc xem nhƣ một yếu tố hay bộ
phận hữu cơ của văn hoá. Bởi văn hoá đƣợc cấu thành từ nhiều yếu tố. Trong
đó ngôn ngữ là một yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng, nó vừa thể hiện ở bề
nổi vừa thể hiện ở bề sâu của cơ tầng văn hoá. Là thành tố của nền văn hoá
tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong đó. Bởi vì, ngôn ngữ là phƣơng
tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động của các
thành tố khác trong văn hoá. Ngôn ngữ là một trong những thành tố đặc trƣng
nhất của bất cứ nền văn hoá đặc trƣng nào. Chính trong ngôn ngữ, đặc điểm
của nền văn hoá dân tộc đƣợc lƣu giữ rõ ràng nhất.
Xét về bản chất, mọi sản phẩm của văn hoá đều có nguồn gốc từ ngôn
ngữ. Nhờ ngôn ngữ ngƣời ta mới có thể tƣ duy. Không thể có tƣ duy ngoài
ngôn ngữ. Cũng không thể có sáng tạo lao động, phát minh sáng chế nếu
không có tƣ duy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
Với tƣ cách là đặc điểm đặc thù của nền văn hoá dân tộc, có thể xem xét
ngôn ngữ theo hai hƣớng: hƣớng nội và hƣớng ngoại. Hƣớng nội khi ngôn
ngữ đóng vai trò là ngôn ngữ chính thống dân tộc. Còn trong trƣờng hợp
hƣớng ngoại thì ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản làm phân li một dân tộc. Do
ngôn ngữ có sự kết hợp biện chứng hai chức năng đối lập nên ngôn ngữ thực
sự là phƣơng tiện cho sự bảo toàn của một dân tộc và cũng là phƣơng tiện
tách biệt dân tộc này khỏi nền văn hoá của dân tộc khác. ATARAEB viết:
“Chính ngôn ngữ được một dân tộc sáng tạo ra và của riêng dân tộc này thực
hiện chức năng đặc trưng của dân tộc” [22].
Tóm lại, ngôn ngữ là yếu tố văn hóa quan trọng hàng đầu mang sắc thái
dân tộc. Tuy nhiên, ngoài ngôn ngữ còn có các thành tố khác của văn hoá
cũng mang đặc trƣng dân tộc nhƣ: phong tục, tập quán, truyền thống… Chính
sự đặc thù của văn hoá đƣợc biểu hiện trong ngôn ngữ đã quy định đặc trƣng
văn hoá – dân tộc của hành vi nói năng ở những thành phần thuộc cộng đồng
văn hoá – ngôn ngữ khác nhau.
1.2. Biểu tƣợng văn hoá và biểu trƣng
1.2.1. Biểu tƣợng văn hoá
Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới của các tác giả Jean
Chevalier, Alain Gheerbrant đã chỉ ra cách xác định biểu tƣợng. Khởi nguyên,
biểu tƣợng là một vật đƣợc cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai ngƣời
mỗi bên giữ một phần chủ và khách, ngƣời cho vay và ngƣời đi vay, hai kẻ
hành hƣơng, hai ngƣời sắp chia tay nhau lâu dài…) mỗi bên giữ một phần.
Sau này ráp hai mảnh lại với nhau họ nhận ra mối dây thân tình xƣa, món nợ
cũ, tình bạn ngày trƣớc. “Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa hai
ý tưởng phân ly và tái hợp; nó gợi lên ý một cộng đồng có thể chia tách và có
thể tái hình thành. Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa
của biểu tượng được bộc lộ ra trong cái vừa là gẫy, vỡ vừa là nối kết những
phần của nó bị vỡ ra” [ 3, tr.23].