Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
107
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1495

Tính tích cực nhận thức và mối quan hệ của nó với kết quả học tập của sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

----------------------------------------

VŨ KIM NGỌC

TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC VÀ

MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP

CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM

TRUNG ƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tâm lý học

Mã số: 60 31 80

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ XUÂN HỒNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Tính tích cực của con người góp phần quyết định hình thành và phát triển xã

hội loài người. Tính tích cực của con người biểu hiện ở chỗ con người đã chủ động

sản xuất ra những của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển xã hội; chủ

động cải biến môi trường tự nhiên bắt chúng phục vụ mình, chủ động cải biến xã

hội để xã hội ngày càng phát triển theo chiều hướng tốt đẹp hơn.

Trong hoạt động học tập tính cực là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát

vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức

khoa học. Tính tích cực nhận thức có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động,

đặc biệt là hoạt động học tập. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là rất nhiều sinh viên

còn rất thụ động trong việc học. Nhiều nghiên cứu, khảo sát, nhiều cuộc tranh luận

về phong cách học của sinh viên Việt nam đi đến một kết luận chung là rất nhiều

sinh viên chưa tích cực trong hoạt động học tập, nhận thức. Một nghiên cứu mới

đây của PGS.TS Nguyễn Công Khanh, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã chỉ ra

một loạt các con số về phong cách học của sinh viên và trong đó có không ít con số

rất đáng báo động: Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú

học tập; hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học; gần 70% SV cho rằng

mình không có năng lực tự nghiên cứu;… [32]

Vấn đề tính tích cực nhận thức của người học được các nhà tâm lý, giáo dục

học quan tâm, nghiên cứu để nhằm cải tiến chất luợng giáo dục và đào tạo. Trong

công tác đào tạo giáo viên mầm non thì đây cũng là một vấn đề cấp bách.

Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt

nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ... của trẻ. Vì vậy,

2

việc xây dựng đội ngũ giáo viên cho bậc học mầm non là nhiệm vụ đặt ra cấp bách

trong quá trình đổi mới và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà.

Hiện nay, ngay cả bậc thấp nhất của ngành đào tạo giáo viên mầm non là

Trung học Mầm Non, thì sinh viên cũng đã phải học rất nhiều. Ngoài các môn năng

khiếu: vẽ, đàn, hát, múa thì để trở thành giáo viên mầm non, tối thiểu nhất các bạn

sinh viên phải học các môn chuyên ngành: Tâm lý trẻ, giáo dục mầm non, Bệnh học

nhi, và hệ thống các môn phương pháp. Đó là chưa kể các môn đại cương: văn học,

toán cao cấp, mỹ thuật, âm nhạc, mỹ học - nghệ thuật học, chính trị...ngoài ra các

môn: ngoại ngữ, tin học cũng là một trong những môn bắt buộc sinh viên phải hoàn

thành để tốt nghiệp. Thế nên, để có được một đội ngũ giáo viên mầm non có chất

lượng thì yếu tố tính tích cực nhận thức của sinh viên có thể xem là một trong

những yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì phải có tính tích cực nhận thức thật cao thì các

bạn sinh viên mới có thể đáp ứng được những yêu cầu cao của công tác đào tạo mà

xã hội đang đòi hỏi.

Thế nhưng, sinh viên sư phạm mầm non hiện nay cũng không tránh khỏi tính

thụ động đang là căn bệnh của sinh viên Việt Nam nói chung. Vì thế, việc nghiên

cứu tính tích cực nhận thức và ảnh hưởng của nó tới kết quả học tập của sinh viên

sư phạm mầm non có một ý nghĩa quan trọng đối với công tác đào tạo giáo viên

mầm non. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để

xây dựng, cải tiến và nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo giáo viên

mầm non hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu các biểu hiện về tính tích cực nhận thức của sinh viên

- Tìm hiểu mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của

sinh viên.

- Đề xuất một số biện pháp giáo dục tính tích cực nhận thức nhằm nâng

cao kết quả học tập của sinh viên.

3

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Biểu hiện và mức độ của tính tích cực nhận thức của sinh viên

- Mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên.

- Một số biện pháp giáo dục nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của

sinh viên

3.2. Khách thể nghiên cứu

- 46 giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm trung ương thành phố Hồ Chí

Minh

- 10 giáo viên là lãnh đạo các trường mầm non thường xuyên tổ chức cho

sinh viên kiến thực tập sư phạm

- 315 sinh viên năm thứ 2 và 3 thuộc các khoa Sư phạm mầm non (SPMN),

Giáo dục đặc biệt (GDĐB) của trường Cao đẳng Sư phạm trung ương

Thành phố Hồ Chí Minh phân

4. Giả thuyết nghiên cứu

- Sinh viên trường Cao đẳng sư phạm trung ương Tp. HCM có tính tích

cực nhận thức trong học tập cao.

- Mức độ biểu hiện của tính tích cực nhận thức là khác nhau ở các nhóm

sinh viên khác nhau.

- Có mối quan hệ tương quan giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học

tập tại trường sư phạm cũng như kết quả thực tập của sinh viên.

4

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về tính tích cực, tính tích cực nhận thức,

tính tích cực nhận thức của sinh viên, mối quan hệ giữa tính tích cực nhận

thức và kết quả học tập của sinh viên.

5.2- Khảo sát mức độ biểu hiện của tính tích cực nhận thức và mối quan hệ

giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên

a- Tìm hiểu thực trạng tính tích cực nhận thức của sinh viên

b- Tìm hiểu thực trạng mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết

quả học tập của sinh viên

c- So sánh sự khác biệt về mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và

kết quả học tập của các nhóm sinh viên.

5.3- Đề xuất một số biện pháp giáo dục nhằm nâng cao tính tích cực nhận

thức của sinh viên.

6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Kết quả học tập chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau như nhân tố

sinh học, môi trường, giáo dục, xã hội… Song đề tài chỉ tập trung nghiên cứu mối

quan hệ giữa tính tích cực nhận thức trong học tập và kết quả học tập. Do sinh viên

năm 2 và năm 3 mới có hoạt động thực tập tại trường mầm non, phổ thông nên chỉ

nghiên cứu ở SV năm 2 và năm 3.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu

liên quan tới vấn đề tính tích cực nhận thức của sinh viên

7.2- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.

- Phương pháp anket: Xây dựng anket về tính tích cực nhận thức dựa vào

anket tính tích cực nhận thức của Thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu.

- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn

5

- Phương pháp quan sát

- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

7.3- Xử lý số liệu: thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows

- Tính điểm trung bình (Mean)

- Đếm tần số, tính phần trăm (Count, Percentile)

- So sánh (dùng kiểm nghiệm T và F)

- Tương quan (Pearson)

8. Đóng góp của đề tài

Giúp giáo viên nắm bắt được thực trạng mức độ tính tích cực nhận thức trong

học tập và ảnh hưởng của nó đến kết quả học tập của sinh viên, trên cơ sở đó xây

dựng những biện pháp giáo dục, dạy học nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của

sinh viên.

6

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.1.1- Một số nghiên cứu về tính tích cực trên thế giới

Tính tích cực từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. có thể

nói đây là vấn đề không còn xa lạ nữa. Đứng ở mỗi góc độ, mỗi trường phái lại

nghiên cứu tính tích cực ở những phương diện khác nhau, nghiên cứu ở những đối

tượng, khách thể khác nhau.

Dưới góc độ triết học, L.Aristova cho tính tích cực nhận thức của con người

xuất hiện trong hoạt động cải tạo, thể hiện thái độ cải tạo của chủ thể nhận thức với

đối tượng nhận thức. Nếu hành động thiếu thái độ cải tạo thì không được coi là tính

tích cực mà ngược lại vẫn bị coi là trì trệ. Tính tích cực nhận thức đòi hỏi ở hai

yếu tố:

- Thái độ lựa chọn đối tượng nhận thức (cái mà anh ta chọn trong thời gian

hiện tại)

- Đặt ra mục đích, nhiệm vụ phải làm, cải tạo đối tượng trong những hoạt

động tiếp theo nhằm giải quyết vấn đề

Dưới góc độ tâm lý – giáo dục

TTCNT từ lâu được xem là yếu tố quan trọng trong tâm lý người, nó giúp

con người nhận thức thế giới ngày càng đầy đủ và bản chất hơn. Từ lâu, các nhà

giáo dục học đã sớm nhận ra tầm quan trọng của TTCNT trong quá trình giáo dục.

Khoảng thời gian từ thế kỷ XVII-XIX, việc phát huy TTCNT của người học

được xem là “nguyên tắc vàng” trong dạy học. Có thể nói người đầu tiên đề cập đến

nguyên tắc này là nhà giáo dục Tiệp Khắc J.A.Cômenxki (1592-1670), theo ông:

“Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát

triển nhân cách... Hãy tìm ra những biện pháp để phát huy tính tích cực của người

học và cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn” [26]. Ông còn chỉ ra

“Tích cực nhận thức không đơn thuần là chỉ ngồi nghe mà phải tìm hiểu bản chất sự

vật, hiện tượng” [26].

7

Với J.J.Rutxô (1713-1784) nhà triết học người Pháp, dạy học phải để “Trẻ

tích cực dành lấy kiến thức bằng con đường tự tìm hiểu, tự khám phá, không nên

học thuộc lòng mà phải sáng tạo. Giáo dục không được áp đặt, người thầy phải đáp

ứng mọi yêu cầu, mong muốn của trẻ” [2].

Thế kỷ XVIII, nhà giáo dục Xô Viết tiêu biểu, K.Đ.Usinxki cũng có quan

điểm “Khi cần dạy trẻ điều gì, chỉ cần cho trẻ tự quan sát, tự phát biểu ý kiến của

mình, tưởng tượng, nhớ lại những gì quan sát được và rút ra kết luận là có hiệu quả

nhất” [26].

J.Dewey (1895-1952) nhà giáo dục người Mỹ chỉ ra “Người giáo viên là

người hướng dẫn trẻ và đáp ứng mọi yêu cầu của trẻ. Còn trẻ phải tích cực trong

mọi hoạt động của mình, là chủ thể nhận thức” [26].

J.Piaget (1896-1980) nhà tâm lý học, giáo dục học tiêu biểu của thế kỷ XX,

người Thụy Sỹ. Với ông, “Quá trình phát triển của trẻ mang tính chủ động và tích

cực” [26]. Ông khuyến khích các chương trình giáo dục mà trong đó nhấn mạnh

việc học tập và tự khám phá của trẻ.

Không chỉ dừng lại ở đó, vấn đề tính tích cực của người học còn tiếp tục

được nghiên cứu ở thế kỷ XX – XXI. Các công trình nghiên cứu của một số nhà

khoa học trên thế giới đề cập đến tính tích cực theo nhiều khía cạnh khác nhau, tác

giả Đào Việt Cường đã tóm tắt trong luận văn thạc sĩ: [8,8]

Thứ nhất, nghiên cứu TTCNT của người học trong mối quan hệ giữa nhận

thức và ý chí (I.F.Kharlômôv, R.A.Đanhilôv, Ôkôn…). Hướng nghiên cứu này hỗ

trợ rất nhiều cho các nhà giáo dục trong việc tìm kiếm con đường và điều kiện cần

thiết nhằm phát huy TTCNT của người học.

Thứ hai, nghiên cứu bản chất và cấu trúc của TTCNT của người lớn và trẻ

em, trong đó đặc biệt lưu ý vai trò chủ động của chủ thể trong quá trình nhận thức

(P.B.Êxipôv, Xavier Roegiers…). Các tác giả này coi TTCNT là thái độ cải tạo của

chủ thể đối với đối tượng nhận thức thông qua việc huy động các chức năng tâm lý

ở mức độ cao.

8

Thứ ba, nghiên cứu về các dấu hiệu của TTCNT và mức độ thể hiện chúng ở

học sinh (X.P.Baranov, A.M.Machiuskin…). Dựa vào việc xác định các dấu hiệu và

mức độ TTCNT của học sinh trong hoạt động học tập, các tác giả đã đề xuất một số

biện pháp nhằm nâng cao TTCNT của học sinh trong quá trình dạy và học.

Thứ tư, nghiên cứu mối quan hệ giữa tính tích cực và tính độc lập nhận thức

của học sinh trong việc hình thành và giải quyết vấn đề nhận thức. Hướng này có

một số quan điểm khác nhau:

- P.B.Êxipôv [26] ngay trong tính tích cực đã có tính độc lập khi hình thành

vấn đề và xác định cách giải quyết vấn đề. Tuy vậy, quan niệm này chỉ đúng

ở mức độ cao của tính tích cực.

- G.I.Sukina [26] tính tích cực được xem như là mức độ chuẩn bị cho tính

độc lập.

- I.I.Lecner [26] tính tích cực là điều kiện của tính độc lập và không thể nào có

tính độc lập mà thiếu tính tích cực, nhưng tính tích cực có thể không kết hợp

với tính độc lập.

- R.A.Đanhilôv … phân loại TTCNT dựa vào chức năng tâm lý và mức độ

huy động các chức năng tâm lý đó.

1.1.2- Một số nghiên cứu về tính tích cực nhận thức tại Việt Nam

Ở Việt Nam, các tác giả như Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo,

Nguyễn Kỳ, Thái Duy Tuyên… đã đề cập đến TTCNT của học sinh trong hoạt động

học tập, cụ thể “TTCNT là thái độ cải tạo thế giới khách thể thông qua sự huy động

mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn đề học tập - nhận

thức” [3, 8-9]. Các tác giả đều nhấn mạnh vai trò chủ thể và sự cần thiết phải phát

huy TTCNT của chủ thể. Tác giả Nguyễn Kỳ cho rằng, “TTCNT là sự ham muốn

hoạt động nhận thức của chủ thể và chính chủ thể chủ động tạo nên những biểu hiện

bên trong và bên ngoài” [17].

Những năm gần đây vấn đề dạy học tích cực đã và đang là chủ trương của

ngành giáo dục nước ta. Một số luận án tiến sĩ, luận văn cao học cũng tập trung

9

nghiên cứu về tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh phổ thông, của

trẻ mẫu giáo. Đất nước ngày càng đổi mới, yêu cầu xã hội ngày càng cao, việc chất

lượng đào tạo bậc đại học, cao đẳng đang là vấn đề nóng hổi, hơn bất cứ bậc học

nào, TTCNT là yếu tố đóng vai trò then chốt cho chất lượng đào tạo. Đã có nhiều

công trình nghiên cứu về tính tích cực cũng như biện pháp nâng cao TTCNT của

sinh viên. Ví dụ như:

- Nguyễn Ngân Giang nghiên cứu về: “Một số biện pháp quản lý hoạt động

học tập theo hướng nâng cao tính tích cực, chủ động sáng tạo của sinh viên

trường cao đẳng giao thông vận tải 3” [13]

- Đào Quốc Trí nghiên cứu: “Một số biện pháp tổ chức quá trình học tập nhằm

phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên các trường kỹ thuật quân

sự” [29]

- ThS. Võ Thị Ngọc Châu: “Nghiên cứu nhu cầu thành đạt và quan hệ của nó

với tính tích cực nhận thức của sinh viên” [6] …

- Lê Thị Ngọc Thương, trong luận văn tốt nghiệp đại học: “Tìm hiểu mức độ

biểu hiện tính tích cực học tập của sinh viên trường đại học sư phạm

TP.HCM trong dạy học theo nhóm trong giờ lên lớp môn giáo dục học” [28] …

Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung và sâu

về TTCNT và ảnh hưởng của nó đến kết quả học tập của sinh viên, đặc biệt tại

trường Cao đẳng Sư phạm trung ương TP.HCM. Vì vậy, có thể khẳng định đề tài

này được xem như một nghiên cứu khá lý thú.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!