Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

TÀI LIỆU GIẢNG dạy về sở hữu TRÍ TUỆ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY
Professor Michael Blakeney
Queen Mary Intellectual Property Research Institute
University of London
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Giáo sư Michael Blakeney
Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary
Đại học London
Provided and translated by
the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II)
Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II)
dịch và cung cấp
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
2
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp
Bài 3 Sáng chế và mẫu hữu ích
1 Luật nội dung của các nguyên tắc sáng chế
Lịch sử
Hệ thống cấp bằng độc quyền sáng chế hiện đại đầu tiên được thiết lập ở thành quốc
Venice vào giữa thế kỷ thứ XV nhằm khuyến khích sáng tạo. Quy chế năm 1474 đã
giải thích rằng “Xung quanh chúng ta có nhiều thiên tài, có khả năng sáng tạo và nghĩ
ra những thiết bị tinh xảo … Bây giờ, nếu đặt ra các quy định về các tác phẩm và thiết
bị do những người đó tạo ra, để người khác khi thấy những thứ đó không thể bắt chước
và lấy đi vinh dự của tác giả sáng chế, thì nhiều người sẽ phát huy tài năng của mình
hơn, sẽ nghĩ ra và làm ra các thiết bị vô cùng hữu ích và có lợi cho Khối thịnh vượng
chung của chúng ta”.
[Trích từ Mandich, ‘Venetian Patents (1450-1550)’ (1948) 30 Journal of the Patent
Office Society 166 đến 177.]
Tại Anh, từ thế kỷ thứ XIV, các quốc vương Anh đã dành sự bảo hộ cho cả thợ thủ
công ngoại quốc nhằm khuyến khích luồng kỹ năng công nghệ vào nước này.
[Xem Hulme, ‘The History of the Patent System under the Prerogative and at Common
Law’ (1896) 12 Law Quarterly Review 141.]
Cho đến cuối thế kỷ thứ XVI, việc bán các bằng độc quyền sáng chế đối với cả việc
bán và sản xuất hàng hóa cũng đã trở thành một nguồn thu lớn cho các quốc vương
Anh. Trong một nỗ lực hạn chế việc bán quyền đối với sáng chế một cách thái quá,
năm 1624 Nghị viện Anh đã ban hành Quy chế về Độc quyền làm cơ sở cho các luật
sáng chế hiện đại của những nước xây dựng pháp luật dựa trên thông luật. Quy chế
này chứa đựng quy định chung về cấm độc quyền, các bằng độc quyền sáng chế được
cấp cho: “việc độc lập làm ra hoặc tạo ra hàng hóa mới bằng phương pháp bất kỳ trong
phạm vi vương quốc” và quy định rằng độc quyền bằng sáng chế chỉ được cấp trong
thời hạn tối đa là 14 năm. Vì thế, theo hệ thống thông luật của Anh, bằng độc quyền
sáng chế chỉ được cấp cho các sáng chế hữu ích.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
3
Tại châu Âu lục địa, văn bản pháp luật hiện đại đầu tiên về sáng chế là Luật của Pháp
ngày 7 tháng 01 năm 1791. Luật này chịu ảnh hưởng lớn của tinh thần cách mạng thời
kỳ đó và trong phần lời nói đầu có nhận định rằng “mọi ý tưởng mới, mà việc bộc lộ
hoặc phát triển chúng có thể là hữu ích cho xã hội thuộc về người đầu tiên nghĩ ra, và
sẽ là xâm phạm quyền thực chất của một người nếu không coi một sáng chế về kỹ
thuật và hàng hóa hữu ích là tài sản của tác giả sáng chế đó”.
[Nguồn T. Regnauld, De la Législation et de la Jurisprudence concernant les Brevets
d’invention de Perfectionnement et d’Importation Paris, Antione Bavoux, 1825, 135]
Tinh thần cách mạng tương tự và sự tôn trọng quyền con người ảnh hưởng đến luật
của Pháp cũng đã tác động đến Hiến pháp của Hoa Kỳ năm 1787, trong đó tại Mục 8
quy định rằng “Quốc hội có thẩm quyền … thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và kỹ
thuật hữu ích, bằng việc bảo đảm cho các tác giả và nhà sáng chế các quyền độc quyền
đối với các tác phẩm và phát hiện của họ trong một thời hạn nhất định”
Câu hỏi tự đánh giá
Câu 1 Theo lịch sử về bằng độc quyền sáng chế, mục đích chính của bằng
độc quyền sáng chế là gì?
Trả lời Mục đích của bằng độc quyền sáng chế là dành sự bảo hộ cho các tiến bộ
công nghệ (sáng chế). Đó là phần thưởng cho việc bộc lộ sự sáng tạo ra
cái mới cũng như việc phát triển tiếp theo, hoặc cải tiến những công nghệ
đã có.
Cơ sở lý luận cho việc bảo hộ sáng chế
Nguồn gốc lịch sử của luật sáng chế gợi ra một số thuyết giải thích cho việc bảo hộ
sáng chế. Những thuyết đó bao gồm:
1. Thuyết phần thưởng. Các tác giả sáng chếcần được thưởng cho việc tạo ra các
sáng chế hữu ích và luật pháp phải được sử dụng để bảo đảm việc thưởng này.
2. Thuyết khuyến khích. Cơ chế theo đó sáng chế được khen thưởng, sẽ khích lệ sự
tạo ra sáng chế mới cho nghiên cứu và phát triển.
3. Thuyết hợp đồng hoặc bộc lộ. Bằng việc đưa ra hệ thống bảo hộ, các nhà sáng
chế sẽ được khuyến khích bộc lộ các sáng chế của họ, giới thiệu công chúng,
sau một thời gian độc quyền.