Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu giảng dạy môn pháp luật
PREMIUM
Số trang
188
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1764

Tài liệu giảng dạy môn pháp luật

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THỦ ĐỨC

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

________________________________________________________

TÀI LIỆU GIẢNG DẠY MÔN:

PHÁP LUẬT (TCCN)

TẬP THỂ TÁC GIẢ:

1) ThS. Huỳnh Thiên Vũ (chủ biên)

2) Nguyễn Thùy Châu

3) Nguyễn Thị Hà Phương

TP.Hồ Chí Minh, tháng 6/2011

2

TẬP THỂ TÁC GIẢ BIÊN SOẠN:

1) ThS. Huỳnh Thiên Vũ – Chủ biên - Biên soạn các bài 01, 3, 5, 8, một phần bài

06.

BÀI 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC

BÀI 3. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT - VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ

BÀI 5. LUẬT HIẾN PHÁP

BÀI 6. LUẬT LAO ĐỘNG – Tiểu mục 7.4. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

giải quyết tranh chấp lao động và 7.5. Đình công;

BÀI 8. LUẬT DÂN SỰ

2) Nguyễn Thùy Châu – Biên soạn các bài 06, 7, 9.

BÀI 6. LUẬT LAO ĐỘNG

BÀI 7. LUẬT HÌNH SỰ

BÀI 9. LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

3) Nguyễn Thị Hà Phương – Biên soạn các bài 2, 4, 10.

BÀI 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT

BÀI 4. Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

BÀI 10. PHÁP LUẬT VỀ TỐ TỤNG

3

LỜI TÁC GIẢ

Trong những năm qua công tác tăng cường giáo dục pháp luật trong các trường

đại học, cao đẳng, TCCN đã được Nhà nước xác định là một trong các nhiệm vụ trọng

tâm của các cấp, các ngành, nhất là Ngành Giáo dục. Việc ban hành Quyết định số

37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình

phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012; Quyết định số 1928/QĐ-TTg

ngày 20/11/2009 phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật trong nhà trường”; Kế hoạch số 143/KH-BGDĐT ngày 29/3/2011 của Bộ

Giáo dục và Đào tạo về ban hành kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm

2011 của Ngành Giáo dục đã khẳng định sự đặc biệt quan tâm đó.

Thực hiện chủ trương đó, việc biên soạn tài liệu môn học Pháp luật làm nguồn

tư liệu giảng dạy của giảng viên và phục vụ học tập, nghiên cứu cho học sinh, sinh

viên các ngành bậc Trung cấp chuyên nghiệp trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức là

hết sức cần thiết. Đây là môn học thuộc phần kiến thức giáo dục đại cương theo

chương trình khung trình độ trung cấp của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Tài liệu đặt mục tiêu hướng dẫn các học sinh, sinh viên nghiên cứu môn học

Pháp luật nhằm trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết nhất về nhà nước và pháp

luật nói chung, nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng, các ngành luật cơ bản của

hệ thống pháp luật Việt Nam đủ làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu các môn học pháp

luật khác trong chương trình đào tạo.

Tài liệu được kết cấu gồm 10 bài theo chương trình học phần môn Pháp luật

dành cho bậc đào tạo trung cấp tất cả các ngành của trường Cao đẳng Công nghệ Thủ

Đức. Trong đó 04 bài đầu đề cập đến một số vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật.

Sáu bài sau, mỗi bài đề cập chi tiết một ngành luật quan trọng như Luật Hiến pháp,

Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình và Luật Tố

tụng (Hành chính, Dân sự, Hình sự). Đây là những ngành luật điều chỉnh những quan

hệ xã hội cơ bản và phổ biến trong đời sống xã hội.

Tài liệu biên soạn đã cố gắng cập nhật những quy định mới nhất của hệ thống

pháp luật Việt Nam. Song cũng như giáo trình các môn học khác, tài liệu không thể

nào đề cập tới ngọn ngành mọi vấn đề mà người dạy và người học muốn biết được. Tài

liệu này chỉ có thể được coi là nguồn học liệu chính, cơ bản nhất của môn học. Vì thế,

trong quá trình học môn Pháp luật, HSSV cần phải chủ động, tích cực nghiên cứu, tìm

hiểu, sưu tập tư liệu, … sao cho có thể tiến tới lĩnh hội những tri thức cần thiết làm

hành trang bước vào cuộc sống.

Vì thời gian đầu tư có giới hạn, bản thân các tác giả cũng do tầm kiến văn hạn

hẹp nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế mong nhận được sự đóng

góp để tài liệu được hoàn thiện hơn.

Chủ biên

ThS. Huỳnh Thiên Vũ

4

Bài 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC

Đây là bài học cơ bản, có tính chất nền tảng của môn học Pháp luật, được coi là

“cội nguồn của tri thức về pháp luật”(1)

. Sau khi học xong bài 1, sinh viên có khả

năng:

- Hiểu và nắm vững một cách hệ thống những kiến thức cơ bản, ban đầu về

nguồn gốc, bản chất, đặc trưng cơ bản của nhà nước và vai trò của nhà nước. Phân biệt

được Nhà nước với các thiết chế xã hội khác.

- Phát biểu được tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống cơ quan nhà nước, phân tích

được các đặc trưng của nhà nước pháp quyền, phương hướng xây dựng và hoàn thiện

nhà nước pháp quyền.

- Có kiến thức lý luận và thực tiễn cơ bản, cần thiết để lĩnh hội kiến thức ở các

bài sau một cách liên tục, có hệ thống và vững chắc.

- Hình thành tình cảm, niềm tin và ý thức pháp luật trong HSSV, thông qua đó,

tác động đến tình cảm, niềm tin và ý thức pháp luật của mọi người.

I. NGUỒN GỐC NHÀ NƯỚC

Nhà nước là một hiện tượng xã hội phức tạp. Muốn hiểu rõ và đầy đủ, khái niệm,

bản chất của Nhà nước, cần phải làm sáng tỏ nguồn gốc, sự ra đời của Nhà nước.

Trong quá trình nghiên cứu về nhà nước, nhiều học giả đã quan tâm tới việc tìm kiếm

câu trả lời cho các câu hỏi: Nhà nước xuất hiện ở đâu? Từ khi nào? Nhà nước là do ai

lập ra? Vì sao nhà nước xuất hiện? Song việc lý giải những vấn đề trên rất khác nhau

giữa các nhà nghiên cứu nên có khá nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc nhà

nước.

Thứ nhất, quan điểm thần quyền cho rằng nhà nước có nguồn gốc thần thánh.

Các nhà tư tưởng theo quan điểm này lý giải rằng nhà vua - người đứng đầu nhà nước

là do thần thánh sinh ra, là sự hoá thân của thần thánh trên trần thế và quyền cai trị dân

chúng của họ cũng là do thần thánh ban cho, họ được coi là “Thiên tử”, “Thiên

hoàng”, người thay Trời trị dân. Vì vậy, các nhà vua phải được tôn thờ và được tuyệt

đối phục tùng như thần thánh. Ví dụ: Trong các tài liệu cổ Ai cập, Chúa Trời đã từng

nói với Hoàng đế Ramgiêsu II rằng: “Ta là cha của con… Ta trao cho con sứ mệnh

của trời đất để con cai quản…”(

2

).

Rõ ràng, đây là một quan điểm hoàn toàn duy tâm về nguồn gốc của nhà nước.

Thứ hai là quan điểm cho rằng nhà nước hình thành trên cơ sở sự phát triển tự

nhiên của các gia đình, là sản phẩm của tự nhiên.

Chẳng hạn, Aristote - đại diện điển hình của quan điểm này - luận giải rằng con

người sẽ không thể tồn tại được nếu không kết hợp lại với nhau giống như sự kết hợp

giữa giống đực và giống cái để duy trì nòi giống trong các sinh vật khác, điều đó

không thông qua một sự lựa chọn mà chỉ do sự thôi thúc có tính chất bản năng. Do đó

1 Xem: TS. Trần Văn Thắng (chủ biên), TS. Dương Thị Thanh Mai, PGS TS. Nguyễn Trung Tín, Giáo trình

Pháp luật, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội – 2008.

2

Xem: “Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới”. Người dịch: Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái. NXB

Chính trị Quốc gia. Hà Nội – 1993, tr. 31.

5

xã hội đầu tiên là xã hội giữa đàn ông với đàn bà trong một gia đình và sau đó là xã hội

của nhiều gia đình được tạo nên do sự thuận lợi lẫn nhau và sự bền vững của chúng,

được gọi là cái làng và cái làng một cách tự nhiên nhất là gồm có tổ tiên và các con

cháu của một gia đình. Sau đó, mỗi gia đình lại trở thành một cái nhánh của gia đình

lớn, được chỉ huy bởi một người già nhất, vì thế mà các thành bang đầu tiên đã được

cai trị bởi các nhà vua.

Theo Aristote, nhà nước ra đời trên cơ sở sự liên kết tự nhiên và tự nguyện giữa

mọi người vì lợi ích của mỗi người và vì lợi ích chung, Sở dĩ con người có thể liên kết

với nhau thành các cộng đồng, các xã hội như gia đình, làng xóm và thành bang là vì

họ có khả năng nói nên họ có khả năng giao tiếp cao hơn các động vật khác và là động

vật có tính xã hội. Ngoài ra còn vì con người có khả năng nhận thức điều tốt và điều

xấu, công bằng và bất công và có quan điểm chung về những điều đó. Sự xuất hiện của

nhà nước là trực tiếp từ nhu cầu quản lý cộng đồng, quản lý xã hội, vì nếu không có sự

quản lý thì con người không thể sống và sống tốt được, không có sự an toàn cho mọi

người, do đó, sự xuất hiện của nhu cầu quản lý cũng là tự nhiên, là lẽ đương nhiên.

Trong quan hệ quản lý thì bao giờ cũng phải có người quản lý và người bị quản lý,

người ra lệnh và người phục tùng mệnh lệnh. Trong gia đình thì chủ gia đình là người

quản lý, còn trong thành bang thì những người được phú cho khả năng trí tuệ ưu tú

hơn người phải được đặt cao hơn, là người cai trị và những người khác sẽ là người bị

cai trị, là nô lệ và chính quyền chỉ là của những người tự do và bình đẳng.

Điểm hợp lý của quan điểm này là cho rằng nhà nước xuất hiện từ nhu cầu quản

lý xã hội, bảo vệ an toàn cho mọi người và bảo vệ lợi ích chung. Song nếu dựa vào

quan điểm của Học thuyết Mác – Lênin thì đây không phải là quan điểm hợp lý về

nguồn gốc của nhà nước. Điểm hạn chế lớn nhất của quan điểm này là nó đã được sử

dụng để biện minh cho sự bất bình đẳng, sự nô dịch và thống trị con người trong xã

hội, coi đó như một điều tự nhiên, tất yếu.

Thứ ba, quan điểm hợp đồng (khế ước) xã hội cho rằng nhà nước ra đời trên cơ

sở một hợp đồng hay thoả thuận xã hội tự nguyện giữa mọi người trong trạng thái tự

nhiên nhằm bảo tồn cuộc sống, tự do và tài sản của họ, do vậy quyền lực nhà nước là

xuất phát từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho nhà nước. Quan điểm này được đề

cập đến bởi rất nhiều học giả như Thomas Hobbe, John Locke, Jean Jacque Rouseau…

Song mỗi người lại lý giải về nguồn gốc nhà nước theo một cách riêng.

Qua quan điểm của thuyết hợp đồng hay khế ước xã hội về nguồn gốc nhà

nước, có thể thấy, điểm hợp lý của quan điểm này là ở chỗ nó thừa nhận rằng nhà nước

không xuất hiện ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện mà nó chỉ ra đời khi xã hội đã

phát triển đến một giai đoạn nhất định, nhà nước ra đời do nhu cầu quản lý xã hội, bảo

đảm sự an toàn cho mọi người và sự an ninh cho xã hội; nhà nước có chức năng quản

lý xã hội, giữ gìn trật tự, sự ổn định của xã hội và bảo vệ lợi ích chung của cả cộng

đồng. Song điểm bất hợp lý của quan điểm này là ở chỗ nó không chỉ ra được rằng nhà

nước ra đời không chỉ do nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội mà còn do nhu cầu thống

trị giai cấp nên ngoài tính xã hội nó còn có tính giai cấp.

Thứ tư là quan điểm của Học thuyết Mác, quan điểm được coi là khoa học và

hợp lý nhất về nguồn gốc nhà nước. Học thuyết Mác đã chỉ ra rằng: Nhà nước không

6

phải là hiện tượng siêu nhiên hay là sản phẩm của tự nhiên, cũng không phải là vĩnh

cửu và bất biến mà là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu

vong. Nhà nước nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người.

Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, giai đoạn

có sự phân chia con người thành giai cấp và có đấu tranh giai cấp. Nhà nước luôn luôn

vận động, phát triển và chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp, nó sẽ tiêu vong khi những

điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa

3

.

Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một thời kỳ chưa có Nhà nước đó là chế độ

công xã nguyên thuỷ và sẽ phát triển đến giai đoạn không cần đến Nhà nước. Nhà

nước nảy sinh từ trong đời sống xã hội, xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến

một trình độ nhất định, và khi những điều kiện khách quan của sự tồn tại Nhà nước

không còn nữa thì Nhà nước sẽ tiêu vong. Xã hội loài người phát triển qua nhiều hình

thái kinh tế xã hội khác nhau trong đó chế độ công xã nguyên thủy là hình thái kinh tế

xã hội đầu tiên không tồn tại giai cấp và Nhà nước. Trong chế độ công xã nguyên thủy

do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn rất thấp kém và tình trạng bất lực của

con người trước những hiện tượng thiên nhiên và thú dữ, nên để kiếm sống và tự bảo

vệ mình con người buộc phải co cụm lại dựa vào nhau cùng chung sống, cùng lao

động và cùng hưởng thụ những thành quả do lao động mang lại. Mọi tư liệu sản xuất

và sản phẩm lao động đều thuộc sở hữu chung của mọi thành viên trong cộng đồng.

Tính chất xã hội trong chế độ công xã nguyên thủy còn rất đơn giản gồm có tổ chức thị

tộc - là tế bào, là cơ sở cấu thành xã hội. Thị tộc được tổ chức theo nguyên tắc huyết

thống, lúc đầu huyết thống được xác lập theo dòng mẹ gọi là thị tộc mẫu hệ và về sau

được xác lập theo dòng cha gọi là thị tộc phụ hệ. Mỗi thành viên của thị tộc đều bình

đẳng về quyền lợi và địa vị xã hội, trong xã hội không tồn tại đặc quyền, đặc lợi không

có sự phân hóa giàu nghèo. Hệ thống quản lý của công xã thị tộc là Hội đồng thị tộc và

tù trưởng Hội đồng thị tộc hợp thành bởi tất cả các thành viên đã trưởng thành của thị

tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc. Tù trưởng do hội nghị toàn thể thị tộc bầu

ra, được lựa chọn từ những người nhiều tuổi, có kinh nghiệm và uy tín trong cộng

đồng. Tù trưởng đứng đầu thị tộc song không có đặc quyền so với các thành viên khác

của thị tộc, họ cũng phải lao động và được hưởng thụ như mọi người. Quá trình phát

triển xã hội công xã nguyên thuỷ đã xuất hiện hình thức tổ chức cao hơn là bào tộc, bộ

lạc và liên minh bộ lạc.

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực và quyền lực này có hiệu

lực thực tế rất cao, có tính cưỡng chế mạnh. Song đó chỉ là quyền lực xã hội, nó có các

đặc điểm là: Không tách rời khỏi cộng đồng mà thuộc về cả cộng đồng, hòa nhập với

dân cư, do toàn thể cộng đồng tổ chức ra; phục vụ lợi ích của cả cộng đồng; không có

bộ máy riêng để thực hiện. Cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực ở bào tộc, bộ lạc

và liên minh các bộ lạc cũng tương tự như ở thị tộc, song đã thể hiện sự tập trung

quyền lực cao hơn vì tham gia vào hội đồng của các tổ chức này chỉ gồm tù trưởng và

thủ lĩnh quân sự của các thị tộc.

3

Dẫn theo bài viết của TS. Nguyễn Thị Hồi, Một số quan điểm về nguồn gốc nhà nước.

7

Tóm lại, xã hội cộng sản nguyên thủy là xã hội "không có nhà nước, lúc đó các

quan hệ xã hội và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao động đều duy trì được là

nhờ có sức mạnh của phong tục, tập quán, nhờ có uy tín và sự kính trọng đối với

những bô lão của thị tộc, hoặc đối với phụ nữ - địa vị của phụ nữ hồi đó không chỉ

ngang với nam giới mà còn cao hơn nữa, và lúc đó không có một hạng người riêng

biệt, hạng người chuyên môn để bóc lột"

(4)

.

Xã hội công xã nguyên thủy có sự phân công lao động nhưng mang tính tự

nhiên giữa các thành viên của thị tộc để làm những công việc thích hợp khác nhau:

giữa đàn ông và đàn bà, người khỏe, người già và trẻ em. Phân công lao động chưa

mang tính xã hội nên không tạo ra vị trí khác nhau của con người trong sản xuất và đời

sống.

Xã hội công xã nguyên thủy chưa có Nhà nước nhưng quá trình vận động và

phát triển của nó đã làm xuất hiện những tiền đề vật chất cho sự tan rã của tổ chức thị

tộc - bộ lạc và sự ra đời của Nhà nước. Trong quá trình sống và lao động sản xuất, con

người ngày một phát triển hơn về thể chất, trí lực, cấu trúc các giác quan ngày một

hoàn thiện, hiểu biết nhiều hơn các quy luật tự nhiên và xã hội, tích lũy được nhiều

kinh nghiệm sản xuất, luôn tìm kiếm và cải tiến các công cụ lao động. Tất cả những

yếu tố này đưa đến năng suất lao động xã hội tăng lên không ngừng, lực lượng sản

xuất có những bước tiến rõ rệt đòi hỏi có sự phân công lao động theo hướng chuyên

môn hóa. Vào thời kỳ cuối của chế độ công xã nguyên thủy đã diễn ra lần lượt 3 lần

phân công lao động xã hội: 1. Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; 2. Thủ công nghiệp tách

khỏi nông nghiệp; 3. Buôn bán phát triển, thương nghiệp ra đời. Sự phát triển của công

cụ sản xuất, sự phân công lao động xã hội làm cho kinh tế đạt những bước tiến dài, sản

phẩm làm ra ngày một nhiều hơn so với yêu cầu của xã hội xuất hiện dầu hiệu của cải

dư thừa, phát sinh khả năng chiếm đoạt sản phẩm thừa làm của riêng.

Quá trình phân hóa tài sản bắt đầu nảy sinh, những người có địa vị và uy tín trong xã

hội như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự lợi dụng ưu thế sẵn có của mình chiếm đoạt tài sản

của thị tộc - bộ lạc thành tài sản riêng. Chế độ tư hữu được hình thành. Trước đây do

khả năng kinh tế không cho phép và nhu cầu về sức lao động không đặt ra nên tù binh

bị bắt trong các cuộc giao tranh giữa các thị tộc - bộ lạc đều bị giết, về sau do sản xuất

phát triển, nhu cầu sức lao động tăng tù binh được giữ lại nuôi để bổ sung vào nguồn

lao động và những người có địa vị trong thị tộc đã chiếm hữu và khai thác lao động

cho cá nhân họ. Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng xuất hiện gia đình có cơ cấu nhỏ

tách khỏi gia đình phụ hệ cơ cấu lớn và trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất,

độc lập tài sản, tự định đoạt sản phẩm lao động. Trong quá trình sản xuất, những người

có công cụ tốt, có sức khỏe và kinh nghiệm thu được hiệu quả cao, ngày càng giàu có.

Một số người giàu có do chiếm được tư liệu sản xuất, do bóc lột lao động tù binh và

bóc lột những người nghèo khác, đã giành được vị trí ưu thế trong xã hội và trở thành

giai cấp bóc lột. Những người không có tư liệu sản xuất, bị bóc lột ngày càng nghèo

khó trở thành giai cấp bị bóc lột. Hai bộ phận dân cư này do quyền lợi đối lập nhau

nên mâu thuẫn ngày càng gay gắt và quyết liệt, điều kiện kinh tế - xã hội là cơ sở tồn

4 V.I.Lênin. Toàn tập, Tập 29, Nxb. Sự thật, H.1972, tr. 548

8

tại của xã hội công xã nguyên thủy bị phá vỡ, quyền lực xã hội và hệ thống quản lý do

toàn thể các thành viên cộng đồng tổ chức ra để bảo vệ lợi ích của các thành viên bình

đẳng nay không thích hợp với xã hội đã phân hóa và mâu thuẫn gay gắt về lợi ích. Để

duy trì trật tự và quản lý một xã hội đã có những thay đổi rất cơ bản đòi hỏi phải có

một tổ chức và một quyền lực mới khác về chất. Tổ chức đó do giai cấp chiếm được

ưu thế về kinh tế tổ chức ra để thực hiện sự thống trị giai cấp, dập tắt xung đột công

khai giữa các giai cấp, giữ các xung đột ấy trong một vòng trật tự, bảo vệ lợi ích và địa

vị của giai cấp thống trị. Đó là Nhà nước chế độ công xã nguyên thủy tan rã, Nhà nước

xuất hiện là kết quả của sự vận động, phát triển nội tại của xã hội loài người. Tiền đề

kinh tế cho sự ra đời của Nhà nước là chế độ tư hữu tài sản, tiền đề xã hội cho sự ra

đời của Nhà nước là sự phân hóa xã hội thành các giai cấp, các tầng lớp có lợi ích đối

lập nhau và mâu thuẫn giữa các giai cấp, các tầng lớp ấy gay gắt đến mức không thể

điều hòa được.

Như vậy, nhà nước ra đời để thay thế cho chế độ thị tộc, nó nảy sinh từ nhu cầu

quản lý, thống trị xã hội có giai cấp để thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội ấy, nó “tựa hồ

như đứng trên các giai cấp đang đấu tranh với nhau, đã dập tắt cuộc xung đột công

khai giữa họ và cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh

tế, dưới một hình thức được mệnh danh là hợp pháp”

(5)

.

II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC

1. Bản chất của Nhà nước

Bản chất của Nhà nước là vấn đề mấu chốt, cơ bản trong mọi thời đại, trong

toàn bộ nền chính trị, vì nó đụng chạm đến lợi ích của giai cấp thống trị. Làm rõ bản

chất Nhà nước tức là xác định Nhà nước của ai, là công cụ của giai cấp nào, phục vụ

chủ yếu cho giai cấp nào trong xã hội.

- Bản chất là toàn bộ những mối liên hệ, quan hệ sâu sắc và những quy luật bên

trong quyết định những đặc điểm và khuynh hướng phát triển cơ bản của hệ thống vật

chất.

- Khái niệm bản chất của nhà nước: là tất cả những phương diện (những mặt)

cơ bản quy định sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, thể hiện ở 2 phương diện giai

cấp và xã hội quy định sự tồn tại và phát triển của nhà nước.

- Ý nghĩa của việc nghiên cứu bản chất Nhà nước: cơ sở lý giải về các hiện

tượng của nhà nước; hiểu và nắm bắt được quy luật vận động của Nhà nước;

1.1. Tính giai cấp

Nghiên cứu nguồn gốc và sự ra đời của Nhà nước, các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: "Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách

quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được thì Nhà nước xuất hiện"(6)

.

Như vậy, Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp và chính vì thế Nhà

nước luôn luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ:

- Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp cầm quyền, là công

cụ sắc bén nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự giai cấp

trong xã hội.

5 Xem: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hứu và của nhà nước”. PH. Ăng – ghen, sđd, tr. 280.

6 Sđd, t.33 (lời tựa)

9

+ Giai cấp: là tập đoàn người có sự khác nhau về địa vị trong chế độ kinh tế - xã

hội, mà trong đó cơ bản nhất là sự khác nhau trong quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất.

+ Chính trị: là những hoạt động (mối quan hệ) liên quan đến lợi ích của các giai

cấp, các đảng phái, các dân tộc, các quốc gia, các tầng lớp mà vấn đề quan trọng nhất

của nó là tổ chức bộ máy nhà nước và nắm giữ quyền lực nhà nước.

- Nhà nước thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nội dung tính

giai cấp của nhà nước thể hiện ở:

+ Nhà nước do giai cấp nào tổ chức nên;

+ Quyền lực Nhà nước nằm trong tay giai cấp nào;

+ Nhà nước bảo vệ cho lợi ích cho giai cấp nào là chủ yếu.

- Sự thống trị giai cấp thể hiện dưới 3 mặt:

+ Thống trị (quyền lực) kinh tế: có vai trò quyết định, tạo ra sự lệ thuộc về mặt

kinh tế của người bị bóc lột đối với giai cấp thống trị.

+ Thống trị (quyền lực) chính trị: có vai trò duy trì quan hệ bóc lột, là bạo lực

có tổ chức của giai cấp nhằm đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị trong xã hội.

+ Thống trị (quyền lực) tư tưởng: là sự thống trị về mặt tinh thần, hệ tư tưởng

của giai cấp thống trị được xây dựng và thông qua con đường nhà nước trở thành hệ tư

tưởng thống trị trong toàn xã hội.

1.2. Tính xã hội

Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của Nhà nước. Tuy nhiên cần lưu

ý, nói bản chất của Nhà nước là tính giai cấp không có nghĩa là phủ định hoàn toàn vai

trò xã hội của Nhà nước, dù đó là Nhà nước của giai cấp bóc lột. Với tư cách là bộ

máy thực thi quyền lực công cộng, nhằm duy trì trật tự và sự ổn định của xã hội, Nhà

nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội của nó. Trong bất cứ xã hội nào, bên cạnh việc

chăm lo bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị cầm quyền, Nhà nước cũng buộc phải chú

ý đến lợi ích chung của xã hội, phải giải quyết những vấn đề mà đời sống cộng đồng

xã hội đặt ra, chẳng hạn về giao thông, thông tin liên lạc, đấu tranh chống tội phạm

v.v...

Mặt khác, Nhà nước còn phải phản ánh lợi ích của các tầng lớp, giai cấp khác

trong xã hội.

Nội dung tính xã hội của nhà nước thể hiện ở việc:

+ Nhà nước bao giờ cũng là công cụ để đảm bảo những điều kiện cho quá trình

sản xuất của xã hội;

+ Nhà nước là công cụ đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội;

+ Nhà nước là công cụ chủ yếu giải quyết các vấn đề nảy sinh từ xã hội,…

Ngày nay, bản chất nhà nước đã có nhiều sự chuyển biến tích cực, tính xã hội

của nhà nước ngày càng được thể hiện rõ nét, cụ thể: Nhà nước có vai trò điều tiết thu

nhập trong toàn xã hội, xây dựng và phát triển hệ thống an sinh xã hội; Nhà nước bảo

vệ sự tự do, công bằng và bình đẳng trong toàn xã hội,…

1.3. Mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội

Mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội thể hiện sự thống nhất giữa các

mặt đối lập.

10

Mức độ thể hiện tính giai cấp và tính xã hội là khác nhau trong tổ chức và hoạt

động của các nhà nước, điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: lịch sử truyền thống

dân tộc, quan điểm chính trị nhà cầm quyền, mối tương quan giai cấp trong xã hội, bối

cảnh quốc tế,…

2. Đặc trưng của Nhà nước.

So với cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực và quản lý của thị tộc, bộ lạc, liên

minh bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ cũng như các tổ chức khác trong xã hội

có giai cấp, Nhà nước có một số đặc trưng sau đây:

2.1. Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt

Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà gắn

liền với xã hội, hoà nhập với xã hội chưa có giai cấp nên chưa có Nhà nước. Quyền lực

đó do toàn xã hội tổ chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích chung của cả

cộng đồng.

Khi xuất hiện Nhà nước, quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Nhà nước

là tổ chức quyền lực chính trị mang tính công cộng, không còn hoà nhập với dân cư

nữa; Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị và tư tưởng.

Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, Nhà nước có một lớp người

đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Họ tham gia vào các cơ quan Nhà nước và hình

thành một bộ máy thực hiện cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp

thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục vụ theo ý chí của giai cấp thống trị và quản

lý đời sống toàn xã hội;

Bộ máy thực hiện việc cưỡng chế của Nhà nước là quân đội, cảnh sát, nhà tù,

toà án,…

2.2. Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ

Các tổ chức thị tộc và bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ được hình

thành chủ yếu theo huyết thống; trái lại khi Nhà nước ra đời đã thực hiện việc phân

chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, không phụ thuộc vào chính

kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính... Việc phân chia này bảo đảm cho hoạt

động quản lý của Nhà nước tập trung, thống nhất và chặt chẽ hơn, phạm vi tác động

của Nhà nước trên quy mô rộng lớn. Mặt khác, việc phân chia này dẫn đến việc hình

thành bộ máy hoàn chỉnh các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ

sở, phục vụ đắc lực hơn cho giai cấp thống trị.

Chế định quốc tịch xác lập mối quan hệ giữa công dân và nhà nước.

2.3. Nhà nước có chủ quyền quốc gia

Khi Nhà nước ra đời, cùng với các yếu tố phân chia, quản lý dân cư theo lãnh

thổ, hình thành các quốc gia riêng biệt thì Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ

quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý, nó thể hiện ở quyền tối cao của nhà

nước về đối nội và độc lập về đối ngoại. Nhà nước là người đại diện chính thức, đại

diện về mặt pháp lý của toàn xã hội.

Vấn đề chủ quyền quốc gia đang có những sự chuyển biến nhằm phù hợp với

bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.

2.4. Nhà nước ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật

11

Với tư cách là người thực thi quyền lực công cộng duy trì trật tự xã hội, Nhà

nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và áp dụng pháp luật để quản lý

xã hội. Pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, được nhà nước

bảo đảm thực hiện, mọi thành viên trong xã hội đều phải tôn trọng pháp luật.

2.5. Nhà nước quy định thuế và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình

thức bắt buộc, với số lượng và thời hạn ấn định trước.

Nhà nước phải đặt ra các loại thuế vì nhu cầu nuôi dưỡng bộ máy Nhà nước -

lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động, sản xuất để thực hiện chức năng quản lý. Chỉ

có Nhà nước mới được độc quyền quy định các loại thuế và thu thuế vì Nhà nước là tổ

chức duy nhất có tư cách đại biểu chính thức của toàn xã hội để thực hiện sự quản lý

xã hội.

Thuế được sử dụng nhằm duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước.

Thuế là nguồn thu giúp nhà nước thực hiện các hoạt động chung phục vụ toàn

xã hội, là công cụ nhằm điều tiết thu nhập trong xã hội.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước kiểu mới, do đó có bản chất khác hẳn

với bản chất của các Nhà nước bóc lột.

Từ sự phân tích nguồn gốc, bản chất và các dấu hiệu đặc trưng của nhà nước, có

thể nêu lên một khái niệm chung về Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của

quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, thực hiện chuyên chính giai cấp và các

chức năng quản lý đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, duy

trì trật tự xã hội và phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.

III. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC, BỘ MÁY NHÀ NƯỚC.

1. Chức năng của Nhà nước.

Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà

nước, phản ánh bản chất nhà nước, được xác định tuỳ thuộc vào đặc điểm, tình hình

trong nước và quốc tế, nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước trong

từng giai đoạn.

Chức năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do

cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. Trong khoa học lý luận chung

về nhà nước và pháp luật, thông thường, chức năng cơ bản của nhà nước được xác

định căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước. Theo tiêu chí này, các chức năng

của nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Ngoài ra,

nếu dựa vào tính chất thực hiện quyền lực nhà nước, có thể phân chia chức năng nhà

nước thành chức năng lập pháp, chức năng hành pháp và chức năng tư pháp.

Chức năng đối nội là những phương diện hoạt động động chủ yếu của nhà

nước trong nội bộ đất nước như: bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống

đối chế độ, bảo vệ và phát triển chế độ kinh tế, văn hoá v.v...

Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà

nước và dân tộc khác như: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên ngoài, thiết

lập mối quan hệ với các quốc gia khác v.v...

Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau, tác động,

ảnh hưởng lẫn nhau. Việc thực hiện tốt các chức năng đối nội tạo ra những điều kiện

12

thuận lợi cho việc thực hiện các chức năng đối ngoại và ngược lại, việc thực hiện các

chức năng đối ngoại phải phục vụ cho việc thực hiện các chức năng đối nội.

Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều hình

thức, phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có ba hình thức hoạt động chính là:

xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Trong mỗi nhà

nước, việc sử dụng ba hình thức hoạt động này cũng có những đặc điểm khác nhau.

Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để

thực hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng, nhưng nhìn chung có hai

phương pháp chính là giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc lột,

cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện các chức

năng nhà nước. Ngược lại, trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, giáo dục, thuyết phục là

phương pháp chủ yếu, còn cưỡng chế được sử dụng kết hợp ở mức độ nhất định và lấy

giáo dục, thuyết phục làm nền tảng.

Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng, nên chức năng của các nhà nước và việc

tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng đó có những đặc điểm riêng.

2. Bộ máy Nhà nước

2.1. Khái niệm bộ máy nhà nước

Xuất phát từ chức năng của mình, để duy trì quyền lực thống trị, thực hiện được

chức năng của mình thì nhà nước phải tổ chức ra một bộ máy để thực hiện chức năng

của nhà nước. Bộ máy đó được gọi là bộ máy nhà nước.

Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động

theo trình tự, thủ tục nhất định do Hiến pháp và pháp luật quy định. Có mối liên hệ và

tác động qua lại với nhau, có chức năng, thẩm quyền riêng theo quy định của Hiến

pháp, pháp luật nhằm tham gia vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của Nhà

nước.

- Nói tổng thể là nói đến số lượng nhiều, đa dạng. Nhưng tổng thể này không

phải là phép cộng giản đơn mà được tổ chức và hoạt động theo trình tự, thủ tục do

Hiến pháp, pháp luật quy định. Có những cơ quan nhà nước do Hiến pháp quy định

nhưng cũng có những cơ quan nhà nước do Luật định. Những cơ quan nhà nước này

nằm trong bộ máy nhà nước tạo thành một tổng thể thống nhất nhưng có thẩm quyền

riêng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng, thẩm quyền riêng

cũng là góp phần thực hiện chức năng chung của nhà nước. Tổng thể này là sự đảm

bảo tính hệ thống và tạo thành chỉnh thể thống nhất.

- Ngoài ra, các cơ quan nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định (khác với

các cơ quan, tổ chức khác của đoàn thể do điều lệ đoàn thể đó quy định);

- Có mối liên hệ, tác động qua lại: TW- địa phương. Ví dụ: QH là cơ quan

quyền lực nhà nước cao nhất, QH bằng việc thông qua luật tổ chức HĐND, UBND để

quy định vị trí, tính chất pháp lý của các phường, xã, quy định nhiệm vụ quyền hạn

của HĐND,UBND.

Ở đây cũng cần phân biệt bộ máy nhà nước với cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà

nước là bộ phận cấu thành của Bộ máy nhà nước, có thể là một tập thể người (QH,

13

HĐND, UBND) 1 người (Chủ tịch nước) được thành lập và hoạt động theo quy định

pháp luật nhằm tham gia thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chung của nhà nước

7

.

Như vậy:

(1) Cơ quan nhà nước được thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật, theo

những nguyên tắc và trình tự thủ tục chặt chẽ, nhân danh quyền lực nhà nước để thực

hiện một nhiệm vụ công việc để góp phần thực hiện các chức năng chung của nhà

nước.

(2) Bộ máy nhà nước là tổng thể bao gồm các cơ quan nhà nước có tính chất, vị

trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau

tạo thành một thực thể nhất định được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc do

luật định.

7

Tại sao Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan chuyên môn của UBND chỉ có người hay còn gọi là cơ quan một

người?

Vì các cơ quan này làm việc theo chế độ thủ trưởng, chế độ làm việc một người. Văn bản của những cơ quan này

đều nhân danh một người. Ví dụ: quyết định, thông tư của bộ trưởng, nếu bộ trưởng vắng thì người được ủy

quyền là ký thay. Ơ địa phương, các giám đốc sở là người được ủy quyền nên phải chịu trách nhiệm cá nhân.

Trong bộ có các Cục, Vụ, Viện; các Trưởng phòng trong sở chuyên môn cũng chỉ là cán bộ giúp việc cho Giám

đốc sở.

Chế độ thủ trưởng: cá nhân người đứng đầu có thẩm quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm cá nhân khi cấp

phó vi phạm. Ví dụ: Bộ Trưởng Lê Huy Ngọ phải gánh chịu trách nhiệm cá nhân do hai thứ trưởng vi phạm (ký

mà không kiểm tra); Quốc hội đề nghị xem xét trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ thương mại khi Thứ trưởng Mai

Văn Dâu bị truy tố…

14

Các cơ quan Nhà nước có các dấu hiệu chủ yếu sau đây:

2.2. Phân loại cơ quan nhà nước:

Bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam nói riêng

có cơ cấu tổ chức phức tạp, bao gồm nhiều loại cơ quan nhà nước có tính chất, chức

năng, thẩm quyền, phạm vi hoạt động và tên gọi khác nhau, được hình thành bằng

những cách thức khác nhau. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, người ta thường phân

loại các cơ quan nhà nước theo những tiêu chí nhất định và việc phân loại này chỉ có

tính chất tương đối. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam có thể

được phân loại theo các cách sau đây:

a. Căn cứ vào tính chất, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước,

bộ máy nhà nước có thể gồm:

- Các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước (hay còn gọi là các cơ quan dân cử)

bao gồm: Quốc hội và HĐND các cấp.

- Các cơ quan quản lý nhà nước (hay còn gọi là các cơ quan hành chính nhà

nước, hoặc cơ quan chấp hành - điều hành), bao gồm: Chính phủ, UBND các cấp, các

Bộ, Sở - cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, các Phòng, Ban - cơ quan chuyên

môn thuộc UBND cấp huyện.

- Các cơ quan xét xử bao gồm: TANDTC, TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện

và các TA quân sự các cấp.

- Các cơ quan kiểm sát bao gồm VKSNDTC, VKSND cấp tỉnh, cấp huyện và

các VKSQS các cấp.

Ngoài ra, trong cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước Việt Nam còn có Chủ tịch

nước, một chế định độc lập không thuộc các loại cơ quan nhà nước nói trên.

b. Căn cứ vào phạm vi thực hiện thẩm quyền theo lãnh thổ, bộ máy nhà nước

có thể chia thành 2 loại cơ quan:

- Các cơ quan nhà nước ở Trung ương, gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính

phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, TANDTC, VKSNDTC. Hoạt động của các cơ quan

này tác động lên toàn bộ lãnh thổ quốc gia.

2. CQNN có tính độc lập về cơ cấu tổ chức, về cơ sở

vật chất - tài chính

3. CQNN có thẩm quyền (nhiệm vụ, quyền hạn)

mang tính quyền lực NN

4. Hoạt động của các CQNN tuân theo những trình

tự, thủ tục do PL quy định

5. Cán bộ, công chức NN phải là công dân Việt

Nam

1. CQNN được thành lập theo một trình tự, thủ tục

do pháp luật quy định

CÁC

DẤU

HIỆU

ĐẶC

TRƯNG

CỦA

CQNN

15

- Các cơ quan nhà nước ở địa phương bao gồm: HĐND và UBND các cấp, các

Sở, Phòng, Ban trực thuộc UBND, TAND và VKSND cấp tỉnh, TAND cấp huyện.

Hoạt động của các cơ quan này chỉ giới hạn trong phạm vi một địa phương nhất định.

c. Căn cứ vào chế độ làm việc, các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước

có thể chia thành 3 loại sau đây:

- Các cơ quan nhà nước làm việc theo chế độ tập thể như: Quốc hội, HĐND

các cấp, TAND các cấp.

- Các cơ quan nhà nước làm việc theo chế độ thủ trưởng, như Chủ tịch nước,

VKSND, các Bộ, Sở, Phòng, Ban.

- Các cơ quan nhà nước làm việc theo chế độ tập thể kết hợp với chế độ thủ

trưởng như Chính phủ, UBND các cấp.

IV. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Trong lịch sử tư tưởng chính trị pháp lý của nhân loại, tư tưởng về sự thống trị

của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội và ý tưởng về một nhà nước cai trị,

quản lý bằng pháp luật, tôn trọng và thực hiện pháp luật của mình đã hình thành từ rất

sớm, ngay từ thời cổ đại. Sự hình thành của những tư tưởng ấy gắn liền với việc phát

triển dân chủ, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của cá nhân người cầm quyền và

sự vô chính phủ, vô pháp luật. Điều này được thể hiện qua quan điểm của nhiều học

giả ở cả phương Tây và phương Đông.

Chẳng hạn, Platon (427-347 tr.CN) - nhà triết học cổ Hi lạp - cho rằng: nhà

nước chỉ tồn tại lâu bền khi các nhà cầm quyền tuyệt đối phục tùng pháp luật. Ông

viết: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của nhà nước ở nơi nào mà pháp luật

không có hiệu lực và nằm dưới quyền lực của một ai đó. Còn ở nơi nào mà pháp luật

đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là những nô lệ của pháp luật

thì ở đó tôi thấy có sự cứu thoát của nhà nước và những lợi ích mà chỉ có Thượng đế

mới có thể tặng cho các nhà nước”

(8)

.

Còn ở Trung quốc cổ đại, Hàn Phi Tử - đại diện xuất sắc nhất của phái Pháp gia

- thì khẳng định rằng pháp trị là phương pháp duy nhất đúng để cai trị trong thời gian

đó. Ông viết: “Cai trị dân không có gì là cố định, chỉ có lấy pháp luật mà cai trị. Pháp

luật phải chuyển biến theo thời thế thì mới tốt, cai trị có hợp với thời thế mới có hiệu

quả. Cho nên, phép cai trị dân của các bậc thánh nhân là pháp luật phải cùng chuyển

với thời thế, và cấm lệnh phải cùng thay đổi theo khả năng của thời thế”(9

). Như vậy,

ông không chỉ đòi hỏi phải cai trị bằng pháp luật mà còn yêu cầu pháp luật phải có sự

thay đổi theo thời gian cho phù hợp với thực tại khách quan. Ông còn đòi hỏi mọi

người, kể cả vua quan và thần dân đều phải tôn trọng và tuân theo pháp luật và pháp

luật phải được áp dụng một cách công bằng đối với tất cả mọi người. Ông chỉ rõ: “Việc

hợp pháp thì làm, không hợp pháp thì bỏ”

(10)

.

Đến thế kỷ XVIII, E.Cant - nhà tư tưởng Đức - trong tác phẩm của mình đã

nhắc tới thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”. Theo ông, nhà nước là công cụ liên kết

mọi thành viên của nó vào khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và bảo đảm sự tự do và

8 Xem: “Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân” - Sđd, trang 6.

9

Xem: “Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc” - Lã Trấn Vũ. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1964, trang 283.

10 Xem: “Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc” - Sđd, trang 288.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!