Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng
PREMIUM
Số trang
435
Kích thước
47.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1945

Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

PGS. LE HONG LY

S u t a c d o n g

c u a k i n h t e t h i t r u d n g

v ä o i h h o i t i n n g u o n g

sự TÁC ĐỘNG CỦA ■ ■

KINH TẾ THỈ TRƯỜNG VÀO ■

LỀ HỘI TÍN NGƯÕNG m

PGS.TS LÊ HỔNG LÝ

Sự TÁC ĐỘNG CỦA ■ ■

KINH TẾ THỈ TRƯÒNG VÀO

LỄ HỘI TÍN NGƯỠNG ■

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN

VIỆN VĂN HOÁ

BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIÊT TẮT

GS Giáo sư

H. Hà Nội

HĐND Hội đồng nhân dân

MTTQTƯ Mặt trận Tổ quốc Trung ương

Nxb. Nhà xuất bản

PGS Phó Giáo sư

Sđd. Sách đã dẫn

TDTT Thể dục thể thao

Tp. Thành phố

TS rp* Aỵ Tiên sĩ

ƯBND ủy ban nhân dân

UBMTTQ ủ y ban mặt trận Tổ quốc

VHTT Văn hóa thông tin

LỜI M ỏ

Sau bao năm dài chiến tranh giữ nước, người Việt Nam

kết thúc cuộc chiến ác liệt vào mùa xuân 1975. Đất nước

được độc lập, toàn vẹn trong một hoàn cảnh vô cùng khó

khăn với hậu quả lâu dài và khắc nghiệt của một cuộc chiến

tranh chưa từng có cho đến thời điểm bấy giờ. Có thệ nói,

chiến tranh Việt Nam là một cuộc thử nghiệm vũ khí lớn

nhất, sự huỷ diệt cao nhất của tất cả các tập đoàn sản xuất vũ

khí trên thế giới. Bom đạn, chất độc hoá học, chiến tranh tâm

lý, cân não, sự chia rẽ v.v... đã dội lên đầu người Việt. Đất

nước hoang tàn, kinh tế kiệt quệ, hậu quả nặng nề của cuộc

chiến có thể nhìn thấy bất cứ ở đâu trên đất nước cho đến tận

bây giờ. Tuy nhiên, lòng khát khao độc lập và sự toàn vẹn

lãnh thổ, ý chí không chịu làm nô lệ đã làm cho người Việt

Nam vượt qua tất cả để đạt được sự thống nhất đất nước.

Tưởng chừng mọi sự sẽ yên ổn sau ngày 30.4.1975, đất

nước sẽ không còn phải chịu đựng sự chết chóc của bom đạn,

không ngờ không bao lâu sau, hai cuộc chiến ở biên giới phía

Nam và Bắc lại một lần nữa làm người Việt phải đổ máu.

Thêm 15 năm nữa, có lẽ phải tính đến 1985 hoà bình mới thật

sự có được trên dải đất nhỏ bé này, tuy rằng đến năm 1979 sự

đụng độ biên giới phía Bấc kết thúc, nhưng sự căng thẳng còn

kéo dài cho đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷxx.

5

Cũng như tất cả các giai đoạn lịch sử trước đó, người

Việt không chỉ biết đau buồn, than khóc sau mỗi cuộc chiến,

mà họ vươn dậy đối mặt với những thử thách mới như sự mất

mát đau thương, nghèo đói do sự kiệt quệ của nền kinh tế...

Cùng với sự hàn gắn những vết thương chiến tranh, phục hồi

nền kinh tế, cải thiện đời sống, thì một sự hàn gắn hết sức to

lón được đòi hỏi hơn bao giờ hết đó là sự hàn gắn tình cảm

của con người cùng với những di sản văn hoá mà từ đó họ đã

lớn lên, rồi cũng từ đó họ đã ra đi biền biệt, đằng đẵng một

chặng đường dài tưỏmg như không bao giờ trở lại.

Chiến tranh loạn lạc bao giờ cũng kèm theo biết bao

nhiêu sự ly tán của con người. Chín năm kháng chiến đã một

lần xáo trộn, hoà bình lập lại 1954 một lần nữa diễn ra một

cuộc chia cắt lón Nam — Bắc. Người miền Nam tập kết,

người miền Bắc di cư. Mỗi con người ra đi đều mang trong

mình hình ảnh những người thân thuộc, hình ảnh quê hương

với những bờ ao, mái đình, luỹ tre, bến nước, ngôi chùa, dòng

sông với bao niềm khắc khoải, khôn nguôi. Những hình ảnh

ấy không bao giờ mờ phai trong kí ức của tất cả những người

ra đi và ai cũng vậy, dù phải chết cũng muốn ít nhất một lần

trong đời được trở lại với những nơi thân thương ấy.

Ngày hoà bình trở lại, đất nước thanh bình, nhưng kinh

tế vẫn còn eo hẹp nên thật đau lòng khi trở lại những cảnh xưa

người cũ đã thay đổi, đã mất mát quá nhiều. Những người rời

quê hương khi làng xóm còn trù phú, nay trở về trong cảnh bị

tàn phá nặng nề, gác súng lại bắt tay vào công cuộc khôi phục,

nhưng trước hết vì miếng cơm manh áo, đâu đã có thì giờ để

lo chuyện đình, chùa, đền, miếu hay nhà thờ tổ tiên. Người

6

dời Ung đi nơi khác sinh sống nay vé trước hết cũng mới là để

gặp íỡ lại người thân họ hàng, mừng mùng tủi tủi biết người

này :òn, kẻ kia mất, thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Vào những

năm 70 — 80 thực tế ớ nước ta là như vậy, người ta biết phải

giữ cái này, sửa cái kia cho quê hương, họ hàng, song lực bất

tòng tâm không phải chỗ nào và ai cũng làm được.

Cho đến khi đổi mới, đời sống càng ngày càng khấm khá

lên, kinh tế phát triển với tốc độ tâng trưởne tốt hàng năm, đời

sống văn hoá cũng dần dần được cải thiện. Từ chỗ có của ăn,

của để cộng vói cuộc sống có đôi chút dư giả cũng là lúc nhu

cầu vãn hoá tăng lên, không lẽ cứ để những đền, chùa điêu tàn

như trước. Con người không thể chỉ sống vì miếng ăn, đó là

chưi nói đến chuyện tâm linh theo truyền thống của người

Việt, sự yên ấm mồ mả tổ tiên, thần thánh cũng là sự đóng

góp vào cuộc sống yên bình, ổn định của người đang sống,

nếu không kể đến sự phù hộ độ trì của tổ tiên, thần thánh ta

mới có được cuộc sống hôm nay.

Một phong trào khôi phục lại các đền, chùa, đình, miếu,

nhà thờ diễn ra ở khắp các làng quê đến phố phường. Hàng

loạt các di tích văn hoá được khôi phục bởi chủ trương và kinh

phí của nhà nước, từ nguồn đóng góp của nhân dân địa

phương, của những người con xa quê gửi về, của những

người có lòng công đức... Lật các trang báo của những năm

90 cũng như các chương trình quảng cáo nhắn tin vào thời

kì ấy, ta sẽ thấy gần như ngày nào cũng có những lời mời

của các địa phương về dự tiệc khánh thành chùa, đền, đình,

miếu mới được tu bổ, tôn tạo thậm chí là xây mới lại. Qui

mô, kiến trúc,nghệ thuật và tính chất lịch sử, vãn hoá của

7

các đình, chùa ấy không phải ở đâu cũng bảo đảm được nhi

xưa, song điều đáng nói là gần như những di sản tír

ngưỡng, tôn giáo ấy đã được khôi phục lại. Ở một góc đệ

nào đó có thể nói đây là một công cuộc khôi phục các di

sản văn hoá vô cùng to lớn của nhân dân cả nước.

Cùng với việc xây dựng lại đền, chùa, đình, miếu... là

việc khôi phục các lễ hội của làng vốn đã bao lâu nay bị quên

lãng do chiến tranh, do không còn di tích vật thể làm nơi mở

hội. Lễ hội tổ chức vừa để xác định lại vị trí của di tích, để trở

lại với những hình bóng xưa của truyền thống văn hoá làng, để

cảm ơn, ghi nhận công lao đóng góp của tất cả những người

đã tham gia phục hồi lại di sản văn hoá và cũng để khoe với

các làng khác nét văn hoá của làng mình. Sau này, đương

nhiên còn có chuyện thu hút kinh phí vào quỹ chung của dân

làng để bảo tồn di tích và lễ hội. Cho đến nay, có lẽ không còn

một lễ hội quan trọng nào đối với các làng của người miền

xuôi cũng như miền núi chưa được khôi phục lại. Thậm chí cả

những lễ hội mới được du nhập vào Việt Nam nhưng trở thành

một hiện tượng văn hoá phổ biến cũng được kể đến. Con số

thống kê từ nguồn của Cục Văn hoá thông tin cơ sở (Ban nếp

sống mới TƯ) mà chúng tôi có được cho biết, toàn Việt Nam

có: 8902 lễ hội. Trong đó:

- 25 lễ hội du nhập từ nước ngoài

- 7005 lễ hội dân gian

- 1399 lễ hội tôn giáo

- 409 lễ hội lịch sử cách mạng

- 64 lễ hội khác1.

1 Nguồn từ Cục Văn hoá thông tin cơ sở, Bộ Vãn hoá thông tin năm 2(X)4.

8

Một tác giá khác cũng dưa ra một con số thống kê mà

theo tác giả cũng cho ià “chắc chắn là chưa đầy đủ” thì trong

một năm ớ nước ta có 7K50 lễ hội, trong đó có 24 tỉnh có 10Ơ

lễ hội trớ lên. Tỉnh có số lượng lễ hội nhiều nhất ờ miền Bắc là

Hải Dương với 566 lễ hội, và tính nhiều lễ hội nhất ở miền

Nam là Kiên Giang với 392 lễ hội”2. Một thống kê từ 2001 chỉ

tính riêng trong phạm vi huyện Gia Lâm (Hà Nội) đã thống kê

được 139 địa danh có lễ hội. Năm 2000 huyện có 79 nơi làm

đơn xin mở hội và được chính quyền chấp thuận, tạo điều kiện

giúp đỡ tổ chức3. Vấn đề ở đây không nói đến sự chính xác

của các số liệu, mà là sự “bùng nổ” một thời hết sức mạnh mẽ

của các lễ hội cổ truyền trong đời sống hiện nay, với sự đóng

góp của toàn xã hội để có sự bùng nổ ấy. Đó cũng là nhu cầu

to lớn của nhân dân vói các giá trị vãn hoá truyền thống của

dân tộc.

Cần phải khẳng định neay một điều về vai trò của Nhà

nước trong sự phục hồi này là hết sức to lớn. Nếu không có sự

thay đổi trong các chủ trương đường lối lãnh đạo thì sẽ không

có những sự thay đổi mà chúng ta đã thấy trong văn hoá và cụ

thể ở đây là lễ hội. v ề vai trò này của Đảng và Nhà nước, các

nhả lý luận đã chỉ ra có ba bước đột phá để đẫn đến đường lối

đổi mới toàn diện đất nước mà nó đang được tiếp tục hiện nay.

Ba bước đột phá ấy là:

: L<ê Thị Minh Lý, “Lễ hội — nhìn nhận lừ góc độ vãn hoá phi vật the". Trong:

Mộ>t con dường tiếp cận di sân văn lìoá. Bộ VHTT — Cục Di sản, H. 2005,

11.272.

3 C hí Tín, Đ ể lề hội bền gốc trong Ìỏììg dàn, Hà Nội mới cuối tuần, số 308,

Ị7/'2/2()OLtr. 6

9

1- Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8 nãm 1979)

với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra” là

bước đầu tiên của quá trình đổi mới à nước ta.

2- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6 năm 1985)

đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xoá

bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một

giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển

mọi hoạt động sản xuất — kinh doanh sang cơ chế hoạch toán

kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên

tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận

sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.

3- Bước thứ ba là Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội VI,

Bộ Chính trị đã đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc về

quan điểm kinh tế:

a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy

nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công

nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc.

b) Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu nhiều

thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội ở nước ta.

c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung

tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá -

tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, baơ cấp;

chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực

hiện cơ chế một giá4.

4 Báo cáo tống kết một sô' vân d ẻ lý luận thực tiền qua 20 năm đổi mới ( Il^86 -

2006). Nxh. Chính trị Quốc gia. H. 2005. tr. 39, 46. 48.

10

Tất cả những đột phá đó dẫn đến Đại hội VI của Đảng

(12-'; 986) đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đưa ra

đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đưa đất nước đi vào

đúng quĩ đạo của sự phát triển tạo nên những tiến bộ rõ rệt

trong đời sống và nền kinh tế của cả nước. Sự đổi mới toàn

diện và đúng hướng ấy được khẳng định ở Cương lĩnh (năm

1991): “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo

định hưởng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường

có sự quản lý của Nhà nưóc”5 và khái niệm “kinh tế thị

trường” chính thức được văn kiện Đại hội IX đưa ra khẳng

định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là

mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở

nước ta. Đây là một sự thay đổi đúng đắn và hợp với quy luật

phát triển. Chính vì vậy mà nó đã đưa đến những kết quả đáng

kể mà ta thấy như: “Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt

7,5% một năm. Cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch

tích cực theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tỷ trọng

công nghiệp và xây dựng trong GDP năm 1988 chiếm 21,6%

đến năm 2005 tăng lên 41%; tỷ trọng nông nghiệp năm 1988

chiếm 46,3% đến năm 2005 còn 20,5%, tỷ trọng dịch vụ năm

1988 chiếm 33,1% đến năm 2005 tăng lên 38,5%. Năm 1988

còn phải nhập hơn 60 vạn tấn lương thực, mà năm 1989 đã

xuất khẩu được hơn 1 triệu tấn gạo và đến năm 2005 xuất

khẩu 4,2 triêu tấn gạo. Thu nhập bình quân đầu người năm

1990 là 200USD tăng lên 600USD năm 20056.

5-h Nguyẻn Phú Trọng, Công cuộc dổi mới: Nhìn lại d ể tiếp tục tiến lên, Nhân

dân 12/10/2005, số 18329, tr.3.

Trình bày tất cả những vấn đề đường lối trên đây, ehún£

tôi muốn chứng minh rằng để đi đến nhìn nhận nền kinh tế thị

trường trong giai đoạn vừa qua ở nước ta là cả một bước

đường gian nan, vất vả. Đó cũng là điều dễ hiểu khi mà chúng

ta đang từ một thế giới hoàn toàn khác chuyển qua thế giới

mới mẻ này vừa chưa có kinh nghiệm, vừa chưa hiểu biết bao

nhiêu. Do đó không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ, sai lầm, thất

bại. Hơn thế nữa, sự thay đổi về kinh tế đã tác động đến toàn

xã hội ở mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh trong đời sống của con

người, trong đó có văn hoá. Vì thế, ở công trình này chúng tôi

muốn xem xét sự tác động của kinh tế thị trường đến một khía

cạnh hết sức nhạy cảm của văn hoá, đó là lễ hội tín ngưỡng

trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Bằng những nghiên cứu

trên thực địa, chúng tôi sẽ xem xét sự tác động của kinh tế thị

trường đối với lễ hội tín ngưỡng. Sự tác động ấy đã đem lại

những mặt tích cực và hạn chế ra sao đối với các lễ hội này?

Sự tác động'ấy có ý nghĩa thế nào trong cuộc sống của mỗi

con người hiện đại, cũng như có vai trò gì trong việc xây dựng

đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay v.v... Trên cơ sở đó, công

trình cũng thử nhìn nhận từ nhiều góc độ vai trò của các tổ

chức xã hội, chính quyền, các tầng lớp xã hội có liên quan đến

các lễ hội tín ngưỡng hiện nay. Từ đó có thể góp thêm một

cách nhìn, một tiếng nói và có thể những gợi ý cho các nhà

quản lý trong việc xử lý, ứng xử với các lễ hội ấy trong hiện

tại và tương lai. Đó là toàn bộ ý đồ mà công trình của chúng

tôi có tham vọng đạt được.

12

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐÊ CỦA LỄ HỘI TÍN NGƯỠNG • ■

TRONG NÉN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ■

I - PHẠM VI VÀ MỤC ĐÍCH CỦA CÔNG TRÌNH

Do điều kiện nghiên cứu cũng như khả năng của bản

thân, chúng tôi khônc có tham vọng nghiên cứu toàn bộ các lễ

hội tín ngưỡrm đang diễn ra tronc cả nước. Vì thế địa bàn

nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn là hai khu vực cư trú của

người Việt ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Cách làm của chúng tôi là

lựa chọn hai trường hợp điển hình là lẽ hội Bà Chúa Kho ở

Bắc Bộ và lễ hội Bà Chúa Xứ ớ Nam Bộ.

Tại sao chúng tôi lại chọn hai lễ hội này mà không phải

là những lễ hội khác. Điều này được giải thích bởi những

nguyên nhân sau đây;

a) Đây là hai lễ hội có khá nhiều tiếng tăm trong thời

gian qua. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về nó, là đề tài mà

báo chí trong suốt một thời gian dài quan tâm đến, chủ yếu ở

khía cạnh phê phán, chỉ trích.

b) Từ chỗ bị báo chí để ý tói nên các cấp chính quyền

của địa phương cũng phải quan tâm, lo lắng. Một phần họ sợ

13

báo chí phê phán, phần khác lo cấp trên nhắc nhở nên chính

quyền các địa phương này đã có lúc dùng những biện pháp

hành chính để dẹp bỏ. Tuy không dẹp được nhưng đã có lúc

sự nhiệt tình dẹp bỏ này được sử dụng khá triệt để. Điều đó

cũng phản ánh phần nào tư duy nhận thức trong quản lý văn

hóa chung của cả nước ta: từ chỗ cấm đoán, dẹp bỏ đến nương

nhẹ, lờ đi, để tồn tại trong một xu thế thay đổi của tình hình

xã hội.

c) Hai lễ hội ở hai đầu của đất nước nhưng lại khá giống

nhau về nhiều phương diện, mà đặc biệt nhất là sự biến

chuyển của hai vị thần được thờ từ tín ngưỡng nông nghiệp

thành vị thần của thương nghiệp.

d) Hai cách tổ chức khác nhau của một hiện tượng lể hội

gần giống nhau, tuy ở những qui mô khác nhau, cấp độ khác

nhau nhưng mục đích và kết quả lại có nhiều điểm giống nhau

như vấn đề xã hội hóa văn hoá, kinh tế vãn hoá, du lịch văn

hoá v.v...

Từ hai lễ hội cụ thể, chúng tôi thử nhìn nhận sự phát

triển của nó trong quá trình chuyển đổi của đất nước. Từ đó

phần nào cũng tìm hiểu sự phát triển chung của các lễ hội

tương tự ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế

quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, với tất cả

những mặt mạnh, mặt yếu của nó. Trong quá trình nghiên

cứu, chúng tôi cũng cố gắng so sánh hai trường hợp cụ thể

này với các lễ hội khác trong chừng mực tư liệu đã in ấn và

tài liệu điền dã của chúng tôi. Ngõ hầu để thấy được những

nét chung cũng như riêng của những hiện tượng văn hoá

14

khá: nhau trong điều kiện kinh tc chính trị xã hội mà nó

đarg tồn tại.

Tài liệu phục vụ cho công trình này chủ yếu là tài liệu

thự: địa được chúng tôi thực hiện trong hai năm vừa qua.

Đưíng nhicn, nhũnu tài liệu đã có ne bố của các tác giả đi trước

luôi là nquồn lư liệu quí báu mà chúng tôi phải tìm hiểu và

than khảo. Mối quan tâm chính của công trình là xem xét hiện

tưẹng văn hoá cổ truyền đã và đanẹ tồn tại trong đời sốns xã

hộ đươim đại như thế nào? Sự tồn tại của nó đã góp phần vào

cuóc sống hiện nay ra sao đối với những con người và cộng

đồig tham gia trực tiếp vào nó? Từ đó thử tìm hiểu xem tác

độig của nó như thế nào đối với sự phát triển ở nhữnc địa

phương đó nói rièng và xu thế phát triển của cả nước nói chung.

II - MỘT SỐ QUI ƯỚC VỂ KHÁI NIỆM

Đổ thống nhất cách hiểu tron 2, quá trình nghiên cứu,

chúng tôi xin dừng lụi ở một số khái niệm như nhữnq công cụ

làm việc. Điều này hoàn toàn mang tính chất qui ước riêng

cho công trình chứ khôn? có tham vọng tìm ra một khái niệm

hay một thuật ngữ khoa học mới.

I. Lễ hội tín ngưỡng

Trước hết nói về Ihuật ngữ Lễ hội. Cho đến nay các nhà

nghiên cứu vẫn chưa có một sự ihống nhất trong việc sử dụng

khái niệm này. Tùy theo góc độ tiếp cận và quan điểm nhìn

nhận mà mỗi người có cách sử dụng riêng. Công trinh này

không chú trọng vào việc xein xct các khái niệm ấy, cho nên

chúng tôi chỉ xin điểm lại những nét chính.

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!