Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quản trị chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Ninh Thuận: Luận văn thạc sĩ kinh tế / Phan Gia Bảo
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------------------
PHAN GIA BẢO
QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM –
CHI NHÁNH NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
TP Hồ Chí Minh – Tháng 03 Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------------------
PHAN GIA BẢO
QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM –
CHI NHÁNH NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 8.34.02.01
Người hướng dẫn khoa học : TS.TRẦN THỊ KỲ
TP Hồ Chí Minh – Tháng 03 Năm 2019
1
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT
LƢỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1.Khái niệm
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hoá. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường đã làm biến
đổi mạnh mẽ hệ thống ngân hàng thương mại từ những hệ thống ngân hàng giản
đơn, sơ khai ban đầu trở thành những ngân hàng hiện đại. Khi mới ra đời, Ngân
hàng thương mại hoạt động chủ yếu là cho vay đối với lĩnh vực thương mại nhưng
ngày nay hoạt động của nó đã mang tính tổng hợp và đa năng. Tuỳ thuộc vào đặc
thù hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia, từng đạo luật mà khái niệm ngân hàng
thương mại có thể được nhìn nhận dưới góc độ này hay góc độ khác.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
- Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
- Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận
tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử
dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính".
Theo cách tiếp cận thận trọng của Peter S.Rose tác giả cuốn Quản trị NHTM thì
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”
Luật số 47/ 2010/ QH12 Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam định nghĩa :
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
2
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật này, nhằm mục
tiêu lợi nhuận”.
Như vậy, có thể nói rằng NHTM là định chế tài trung gian quan trọng trong nền
kinh tế thị trường, giao dịch trực tiếp với khách hàng là các doanh nghiệp, tổ chức
đoàn thể xã hội và cá nhân thực hiện huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
hoạt kỳ, tiền gửi định kỳ, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng vốn huy
động được để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung
ứng các dịch vụ ngân hàng.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Theo điều 4 Luật các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 06 năm 2010 của
Quốc hội khóa XII: Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường
xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi
b) Cấp tín dụng
c) Cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm :
- Nhận tiền gửi: là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có
hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
- Cấp tín dụng: là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
- Cung cấp các dịch vụ thanh toán qua tài khoản: là việc cung ứng phương
tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
1.2. Lý luận về tín dụng ngân hàng :
3
1.2.1. Khái niệm
Khái niệm về tín dụng
Theo Từ điển Kinh tế - Tài chính Việt Nam: “Tín dụng là quan hệ vay mượn,
quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay theo nguyên tắc
hoàn trả. Quan hệ này được xác lập trên cơ sở lòng tin hoặc tín nhiệm lẫn nhau giữa
các chủ thể trong quan hệ đó”
Ngày nay, do có nhiều hạn chế trong quan hệ tín dụng trực tiếp nên người có
khoản tiền nhàn rỗi và người thiếu hụt vốn không gặp nhau về mặt không gian, thời
gian, khối lượng, loại tiền, lãi suất, … và đặc biệt là độ tin cậy lẫn nhau, khiến cho
tín dụng trực tiếp không thể phát triển được mà phải thực hiện qua trung gian chủ
yếu là các NHTM. Như vậy ngân hàng thực hiện chức năng luân chuyển vốn giữa
các chủ thể trong nền kinh tế; thực hiện chức năng này, ngân hàng vừa giữ vai trò là
người đi vay (con nợ) và vai trò là người cho vay (chủ nợ)
Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể khác
trong xã hội. Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, do vậy trong quan hệ
tín dụng với các chủ thể kinh tế khác ngân hàng có thể vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay.
- Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động vốn dưới hình thức nhận
tiền gửi của các chủ thể kinh tế, các cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu ngân hàng.
- Với tư cách là người cho vay, ngân hàng cấp tín dụng đáp ứng kịp thời vốn
cho quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng của các chủ thể kinh tế, cá nhân,
từ đó góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa ngày càng phát triển.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là
quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên
cùng có lợi.
4
Liên quan đến khái niệm về tín dụng, tại khoản 14 điều 4 Luật số
47/2010/QH12 của Quốc hội về Luật các tổ chức tín dụng ghi : “Cấp tín dụng là
việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp
tín dụng khác”.
Liên quan đến khái niệm về tín dụng, tại khoản 14 điều 4 Luật số
47/2010/QH12 của Quốc hội về Luật các tổ chức tín dụng ghi: “Cấp tín dụng của
ngân hàng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam
kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ tín dụng khác”.
1.2.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng mang đặc điểm của tín dụng nói chung, đó là: (1) Dựa
trên cơ sở lòng tin, ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng
sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc và
lãi) đúng hạn. (2) Ttín dụng là sự chuyển quyền sử dụng một lượng giá trị cho
người đi vay trong một thời hạn nhất định, sau đó người cho vay được hoàn trả cả
gốc và lãi. (3) Tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng: Việc thu hồi
tín dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ thuộc vào
môi trường hoạt động ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến động về giá
cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường, thiên tai... khi khách
hàng gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi , dẫn đến khó khăn trong
việc trả nợ, điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng; (4) Tín dụng ngân
hàng trên sở cam kết hoàn trả vô điều kiện của người đi vay cho ngân hàng là người
cho vay: Quá trình cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như:
hợp đồng tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo lãnh... Trong đó bên đi vay phải
cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay và lãi cho ngân hàng khi đến hạn.
5
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn mang đặc điểm riêng, khác với tín dụng
thương mại và tín dụng nhà nước : (1) tín dụng ngân hàng là quan hệ giữa ngân
hàng là người cho vay và các chủ thể trong nền kinh tế là người đi vay; (2) tín dụng
ngân hàng xét về thời gian gồm cả tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong
khi tín dụng thương mại thường chỉ là tín dụng ngắn hạn hoặc tín dụng nhà nước
chủ yếu là tín dụng trung và dài hạn; (3) quy mô tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu
cầu đa dạng của khách hàng và chủ yếu bằng tiền, còn tín dụng thương mại quy mô
tín dụng giới hạn trong phạm vị hàng hóa của người cho vay.
Từ các đặc điểm trên tín dụng ngân hàng phải đảm bảo được hai nguyên tắc
cơ bản sau:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng điều khoản đã được cam
kết, thỏa thuận ghi trong hợp đồng.
1.2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Để phục vụ cho việc phân tích, quản lý hoạt động tín dụng hiệu quả, hạn chế
thấp nhất rủi ro phát sinh, cần phân loại tín dụng theo các tiêu chí khác nhau như
sau:
1.2.3.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay
- Tín dụng sản xuất kinh doanh: ngân hàng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu
sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế trên mọi lĩnh vực: công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, dịch vụ…
- Tín dụng tiêu dùng: ngân hàng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của các cá nhân như mua sắm các vật dụng đắt tiền, như ô tô, mua nhà , đát, du học,
chữa bệnh…
1.2.3.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay
Theo cách này, tín dụng ngân hàng được chia thành ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: theo quy định của Việt Nam, tín dụng ngắn hạn có thời
hạn tối đa đến 12 tháng, cho vay ngắn hạn sử dụng chủ yếu để bù đắp nhu cầu vốn
6
lưu động tạm thời thiếu của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các
cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm,
được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi
mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ… có thời hạn thu hồi vốn
nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng
để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
1.2.3.3. Theo hình thức đảm bảo tiền vay
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên cơ
sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng để thế chấp, cầm cố có
thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các tài sản hình
thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá... Ngoài ra, bảo đảm cho khoản vay
có thể được thực hiện bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng chấp nhận.
- Tín dụng không có bảo đảm: trong trường hợp này ngân hàng cấp tín dụng
cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh mà dựa vào
uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này thường là
những khách hàng quen, đã có uy tín với ngân hàng về việc trả đúng và đầy đủ các
khoản nợ của mình từ trước tới nay.
1.2.3.4. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
- Tín dụng trả góp: ngân hàng cho vay và khách hàng vay phải hoàn trả dần
vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Tín dụng phi trả góp: ngân hàng cho vay và khách hàng vay phải hoàn trả
toàn bộ vốn 1 lần khi đáo hạn, trả lãi có thể theo thoả thuận giữa hai bên.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại cho vay của ngân hàng mà việc thu
nợ được thực hiện theo yêu cầu hoàn trả của người đi vay trên cơ sở khả năng của
người đi vay và trong thời hạn hợp đồng đã thỏa thuận.
1.2.3.5. Theo phương thức cho vay:
7
Cho vay từng lần: Mỗi lần cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng thực
hiện thủ tục cho vay và ký kết thỏa thuận cho vay.
Cho vay hợp vốn: Là việc có từ hai tổ chức tín dụng trở lên cùng thực hiện
cho vay đối với khách hàng để thực hiện một phương án, dự án vay vốn.
Cho vay lƣu vụ: Là việc tổ chức tín dụng thực hiện cho vay đối với khách
hàng để nuôi trồng, chăm sóc các cây trồng, vật nuôi có tính chất mùa vụ theo chu
kỳ sản xuất liền kề trong năm hoặc các cây lưu gốc, cây công nghiệp có thu hoạch
hàng năm. Theo đó, tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận dư nợ gốc của chu
kỳ trước tiếp tục được sử dụng cho chu kỳ sản xuất tiếp theo nhưng không vượt quá
thời gian của 02 chu kỳ sản xuất liên tiếp.
Cho vay theo hạn mức: Tổ chức tín dụng xác định và thỏa thuận với khách
hàng một mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất
định. Trong hạn mức cho vay, tổ chức tín dụng thực hiện cho vay từng lần. Một
năm ít nhất một lần, tổ chức tín dụng xem xét xác định lại mức dư nợ cho vay tối đa
và thời gian duy trì mức dư nợ này.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm
bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi mức cho vay dự phòng đã thỏa
thuận. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức
cho vay dự phòng nhưng không vượt quá 01 (một) năm.
Cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng một mức thấu chi tối đa để thực hiện dịch vụ thanh toán trên tài khoản
thanh toán. Mức thấu chi tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian tối đa 01
(một) năm.
Cho vay quay vòng: Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận áp dụng
cho vay đối với nhu cầu vốn có chu kỳ hoạt động kinh doanh không quá 01 (một)
tháng, khách hàng được sử dụng dư nợ gốc của chu kỳ hoạt động kinh doanh trước
cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo nhưng thời hạn cho vay không vượt quá 03 (ba)
tháng.
8
Cho vay tuần hoàn (rollover): Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận
áp dụng cho vay ngắn hạn đối với khách hàng với điều kiện:
- Đến thời hạn trả nợ, khách hàng có quyền trả nợ hoặc kéo dài thời hạn trả
nợ thêm một khoảng thời gian nhất định đối với một phần hoặc toàn bộ số dư nợ
gốc của khoản vay.
- Tổng thời hạn vay vốn không vượt quá 12 tháng kể từ ngày giải ngân ban
đầu và không vượt quá một chu kỳ hoạt động kinh doanh.
- Tại thời điểm xem xét cho vay, khách hàng không có nợ xấu tại các tổ chức
tín dụng. Trong quá trình cho vay tuần hoàn, nếu khách hàng có nợ xấu tại các tổ
chức tín dụng thì không được thực hiện kéo dài thời hạn trả nợ theo thỏa thuận.
1.2.3.6. Căn cứ vào hình thức pháp lý
Chiết khấu thƣơng phiếu: Là hoạt động khách hàng đem thương phiếu mà
mình có được do mua bán chịu trong hoạt động kinh doanh nhưng do thương phiếu
đó chưa đến hạn để thanh toán mà khách hàng lại cần tiền và khách hàng sẽ mang
thương phiếu đó đến NHTM xin chiết khấu.
Cho vay: Là hình thức ngân hàng cho khách hàng mượn một lượng tiền nhất
định với cam kết trong hợp đồng tín dụng là khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi
trong một khoản thời gian nhất định
Bảo lãnh (tái bảo lãnh): Là hình thức ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa
vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù trong trường hợp này NHTM không
xuất tiền ra trực tiếp cho khách hàng của mình và chỉ thực hiện nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng khi khách hàng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ kịp thời
cho chủ nợ.
Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản và sau đó mang
cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định về thời gian và giá cả…và để
được sử dụng tài sản thuê đó thì thì khách hàng cứ đến hàng tháng, quý hoặc năm
tùy theo thỏa thuận giữa hai bên mà phải thanh toán cho NHTM một khoản tiền
nhất định.