Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát triển làng nghề ở các tỉnh duyên hải Nam trung bộ - Thực trạng và giải pháp
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Khôi phục và phát triển các LN là nội dung quan trọng của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người nông
dân, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, đóng góp tích cực vào quá trình lành
mạnh hóa các quan hệ xã hội ở nông thôn, khơi dậy các nguồn lực để phát triển
kinh tế ở các địa phương cũng như trong phạm vi cả nước, đồng thời phát huy
bản sắc dân tộc.
Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, LN ở nước ta có lúc thịnh,
lúc suy, phát triển mạnh vào những năm 60 - 70 (thế kỷ XX) dưới các hình thức
hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, sau đó phát triển chậm lại vào thập kỷ 80. Đến
đầu những năm 90, nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,
sản phẩm LN phải cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm cùng loại được sản xuất
bằng công nghệ tiên tiến có chất lượng tốt hơn, đẹp hơn, giá cả thấp hơn; do thị
trường truyền thống về tiêu thụ sản phẩm LN không còn bởi sự sụp đổ của Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm cho sản xuất ở nhiều LN đình
đốn, thậm chí bị suy thoái, mai một dần.
Nhận thức rõ vai trò và thực trạng phát triển của LN, Hội nghị lần thứ 5,
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã xác định: “Phải có chính sách mở
rộng thị trường, khuyến khích khôi phục và phát triển các LN, nâng cao độ tinh
xảo, tính dân tộc độc đáo trong các chủng loại mặt hàng” 1
. Đến Đại hội VIII,
Đảng ta coi phát triển LN là một bộ phận không thể tách rời của kinh tế nông
thôn và là một trong những nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Đại hội IX, X của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan
trọng của LN và chỉ rõ: “Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các
1
Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội, 1993, trang 17
1
điểm công nghiệp ở nông thôn, các LN gắn với thị trường trong nước và xuất
khẩu”, đồng thời “phải phát triển bền vững các LN” 2
.
Cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm về phát triển LN của Đảng, trong
những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách để hỗ trợ,
khuyến khích phát triển LN, như Quyết định 132/2001/QĐ/TTg ngày 7 tháng 9
năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tài chính phục vụ triển khai các
chương trình phát triển đường nông thôn và cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển
LN; Nghị định 134/2004/NĐ/CP của Chính phủ về hoạt động khuyến công với 7
nội dung phục vụ các chương trình hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ các LN, tổ chức,
cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng nông nghiệp nông thôn; tháng 3/2006,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng đề án “mỗi làng một nghề”
và phát triển ngành nghề nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn đến năm 2015; ngày 18 tháng 12 năm 2006, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã có Thông tư số 116/2006/TT-BNN về hướng dẫn thực
hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ/CP của Chính phủ về phát
triển LN và ngành nghề nông thôn. Xuất phát từ thực tế thực hiện Nghị định
ngày 18/04/2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Chỉ thị
số 28/2007/CT-BNN về việc “Đẩy nhanh thực hiện quy hoạch phát triển ngành
nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường LN”...
Với những chủ trương, chính sách, chương trình và đề án nêu trên, LN ở
nước ta đã có điều kiện để phục hồi, phát triển.
Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ (DHNTB) có nhiều tiềm năng để phát
triển LN. Với hàng chục LN có lịch sử hình thành lâu đời đã đưa ra thị trường
nhiều sản phẩm không chỉ nổi danh trong nước mà cả ngoài nước như: gốm
Thanh Hà, đồng Phước Kiều, lụa Mã Châu (tỉnh Quảng Nam); đá Non Nước,
nước mắm Nam Ô (Thành phố Đà Nẵng); đường phổi, kẹo gương (tỉnh Quảng
Ngãi); rượu Bầu Đá (tỉnh Bình Định),... Ngoài bề dày truyền thống của các LN,
các tỉnh DHNTB còn có nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú như: hải sản cho
công nghiệp chế biến, mây, tre, cói, xơ dừa làm nguyên liệu cho nghề đan lát, đất
làm đồ gốm, đá cho sản xuất vật liệu xây dựng… Đặc biệt, các tỉnh DHNTB có
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.172, 194.
2
tiềm năng lớn về phát triển du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch
sử, văn hóa nổi tiếng, đã và sẽ là điều kiện để gắn kết LN với các tour du lịch.
Đây là hình thức tổ chức có hiệu quả ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Để
khai thác những lợi thế này, trong những năm gần đây, Đảng bộ và chính quyền
các tỉnh DHNTB đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm khôi phục, phát triển
các LN, nhờ đó, LN trong khu vực đã có bước phát triển nhất định. Theo số liệu
báo cáo của Sở Công nghiệp các tỉnh, tính tới năm 2007, Quảng Nam có 61 LN,
Bình Định 54 LN, Phú Yên 17 LN, Quảng Ngãi 11 LN và thành phố Đà Nẵng 7
LN. Sản xuất ở các LN đã thu hút được một lượng lớn lao động ở nông thôn, góp
phần chuyển dịch một bộ phận lao động thuần nông sang lao động công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp. Thu nhập của các hộ trong LN ngày càng ổn định và được
cải thiện. Thị trường tiêu thụ sản phẩm tuy chiếm 80-90% thị trường trong nước,
song nhiều LN đã xác lập được vị trí vững chắc trên thị trường. Nhiều cơ sở đã
biết áp dụng công nghệ thông tin để quảng bá sản phẩm, đưa kỹ thuật hiện đại phù
hợp với từng công đoạn sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng,
hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm. Do đó,
sản phẩm LN ngày càng đáp ứng tốt hơn với nhu cầu người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Bên cạnh những ưu điểm, LN ở các tỉnh DHNTB cũng còn những tồn
tại, yếu kém:
- Số lượng các LN tăng chậm, một số tỉnh trong những năm gần đây
không hình thành được LN mới như: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quảng Nam. Nhiều
LN, ngành nghề truyền thống bị mai một và mất dần như: làng chiếu Cẩm Nê
(Đà Nẵng), trống Lâm Yên (Quảng Nam), tơ tằm Phú Phong, dệt thổ cẩm Hà Ri,
bánh tráng dừa Hoài Nhơn (Bình Định)…
- Các LN hiện có phần lớn là quy mô nhỏ, sản xuất phân tán. Tỉnh Quảng
Nam chỉ có 19/61 LN có quy mô đạt 30% số hộ và lao động làm nghề tiểu thủ
công nghiệp. Vốn kinh doanh ở các LN rất thấp, bình quân hộ chuyên nghề là
20,6 triệu đồng, hộ kiêm nghề là 9,18 triệu đồng. Tỉnh Bình Định vốn bình quân
ở các LN khoảng 14,3 triệu đồng/1 cơ sở.
- Thị trường đầu ra của các LN còn nhỏ bé, thiếu ổn định, chủ yếu là tiêu
thụ tại chỗ, nhưng thị trường này cũng kém phát triển.
3
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm LN còn yếu do chưa tạo ra sự đồng
đều về mẫu mã sản phẩm, kiểu dáng, bao bì chậm đổi mới.
- Công nghệ và thiết bị sử dụng trong các LN còn lạc hậu, do đó chất
lượng sản phẩm chưa cao, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm còn chứa
đựng nhiều yếu tố bất hợp lý.
- Chất lượng nguồn nhân lực trong các LN còn thấp, phần lớn lao động
chưa được đào tạo có bài bản, chủ yếu đào tạo theo kiểu cầm tay chỉ việc nên lao
động có kỹ thuật cao rất ít.
- Cơ sở hạ tầng LN còn nhiều khó khăn, nhìn chung mới ở mức trung bình
hoặc dưới trung bình.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các LN đang là một thách thức lớn.
- Việc chấp hành luật pháp, chính sách trong kinh doanh chưa nghiêm.
Kinh doanh không giấy phép, không báo cáo tình hình hoạt động hàng năm, nợ
thuế, trốn thuế ở các cơ sở sản xuất khá phổ biến.
Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều, song chủ yếu là do nhận thức
của một số cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp ở các tỉnh chưa thật đầy đủ, chưa
thấy hết vị trí quan trọng của các LN nên trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa
kịp thời, tập trung, nhất quán. Cơ chế, chính sách của Nhà nước còn thiếu tính hệ
thống, chưa đồng bộ, chưa xác định cụ thể cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp
đối với các LN nên LN phát triển còn mang tính tự phát, thị trường tiêu thụ sản
phẩm do các hộ tự lo, vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh chủ yếu là các
hộ tự chạy,…
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải đánh giá đúng vị trí, vai trò, thực trạng hoạt
động của các LN ở các tỉnh DHNTB, trên cơ sở đó, xác định phương hướng và
đề xuất giải pháp có cơ sở khoa học để phát triển mạnh, bền vững LN nhằm khai
thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của vùng là yêu cầu cấp thiết cần được nghiên
cứu, luận giải. Xuất phát từ lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Phát triển làng
nghề ở các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ - Thực trạng và giải pháp” làm đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2009.
4
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Vấn đề phát triển LN đã được các nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều
phương diện với phạm vi, mức độ khác nhau và đã tạo được những kết quả nhất
định, đáng chú ý là các công trình sau đây:
- Các công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống về cơ sở lý luận, thực
trạng và phương hướng, giải pháp phát triển LN, đặc biệt là LN truyền thống trên
địa bàn cả nước hoặc một vùng kinh tế nhất định, gồm có:
+ Phát triển LN truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Tiến sĩ Mai Thế Hởn, giáo sư, tiến sĩ Hoàng Ngọc Hòa, phó giáo sư, tiến sĩ
Vũ Văn Phúc, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
+ LN thủ công truyền thống Việt Nam, Bùi Văn Vượng, Nhà xuất bản văn
hóa thông tin, Hà Nội, 2002.
+ Nghề cổ Việt Nam, Vũ Từ Trang, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hà
Nội, năm 2002.
+ Khôi phục và phát triển LN nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng -
Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Hà, Hà Nội, 2002.
- Các công trình đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải
pháp để phát triển LN trên cả nước, một vùng, một địa phương gồm:
+ Bảo tồn và phát triển LN, Thực trạng và giải pháp - Liên Minh, Tạp chí
Xưa và Nay, số 293/2007.
+ Khôi phục và phát triển LN Việt Nam, Thái Quang, Tạp chí Con số và
Sự kiện, số 5/2207.
+ LN nước ta, những khó khăn, hạn chế trong quá trình phát triển,
Nguyễn văn Chiến, Tạp chí Khoa học chính trị, số 5/2005.
+ Giải pháp để phát triển LN ở đồng bằng sông Hồng, Đào Thế Anh,
Nguyễn Ngọc Mai, Tạp chí Xưa và Nay, số 293/2007.
+ Thực trạng và giải pháp phát triển LN ở tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Hữu
Hoàn, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 10/2007.
+ Phát triển LN truyền thống ở Đắc Lắc, Báo Nhân dân, ngày 03/12/2007.
- Nghiên cứu phát triển LN trong mối quan hệ với bảo vệ môi trường, giữ
5
gìn bản sắc dân tộc, giải quyết việc làm, phát triển du lịch gắn với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế bao gồm các công trình:
+ Từ quan điểm phát triển bền vững của Ph.Ăngghen suy nghĩ về môi
trường LN ở Việt Nam hiện nay, Bùi Thị Ngọc Lan, Tạp chí Khoa học chính trị,
số 6/2006.
+ Xã hội hóa công tác môi trường LN, Lê Thị Kim Cúc, Tạp chí Tài
nguyên và Môi trường, số 5/2008.
+ LN truyền thống với việc bảo tồn các giá trị văn hóa nghề, Trương
Minh Hằng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2006.
+ LN vùng đồng bằng sông Hồng với việc giữ gìn phát huy giá trị văn hóa
dân tộc, Dương Thị Minh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2007.
+ Phát triển cụm công nghiệp LN trong quá trình hội nhập, GS,TS.
Nguyễn Đình Phan, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, số 2/2005.
+ Phát triển LN nông thôn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
Hoàng Hải, Nguyễn Hữu Thắng, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
số 7/2006.
+ Phát triển LN, giải quyết việc làm ở nông thôn, Đoàn Tất Thắng, Tạp
chí Thương mại, số 44/2005.
+ LN du lịch Việt Nam, GS,TS.Hoàng Văn Châu, Nxb Thống kê, H, 2007.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng và từng giải pháp cụ thể cho phát
triển LN có các công trình:
+ Phát triển môi trường thể chế cho LN ở nông thôn Việt Nam, Bùi Văn
Vượng, Hội thảo khoa học về môi trường thể chế cho các hoạt động dịch vụ và sản
xuất phi nông nghiệp ở nông thôn đồng bằng sông Hồng, Hà Nội, tháng 3/1996.
+ Nhân lực LN: Băn khoăn trước thềm hội nhập, Đoàn Hòa, Tạp chí Tài
chính, số 3/2006.
+ Phát huy những lợi thế truyền thống trong xây dựng thương hiệu LN ở
đồng bằng sông Hồng, Vũ Trường Giang, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, số 15/2006.
+ Phát triển thương hiệu sản phẩm LN truyền thống Việt Nam hiện nay,
6
Nguyễn Vĩnh Thanh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 4/2007.
+ Tình hình vốn của các cơ sở sản xuất ở các LN miền Đông Nam Bộ,
Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Thương mại, số 17/2007.
+ Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm LN, Hồ Thanh Thủy, Tạp chí
Tài chính, số 12/2005.
+ Một số giải pháp tài chính, tín dụng trong phát triển LN, Tôn Thất
Viên, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 8/2006.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển LN ở một số nước trên thế giới và ở
một số địa phương trong nước có các công trình:
+ Tình hình phát triển LN ở một số nước châu Á và kinh nghiệm cần quan
tâm đối với Việt Nam, Mai Thế Hởn, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới,
tháng 6/1999.
+ Mô hình kinh tế - tổ chức sản xuất LN ở Hà Tây, Mai Thanh Cúc, Tạp
chí Kinh tế và Phát triển, số 1/2007.
+ Phú Túc - bài học về sự phát triển của một LN, Hoàng Mai, Tạp chí
Xưa và Nay, số 293.
+ Vai trò chính quyền địa phương trong phát triển kinh tế khu chuyên
doanh gốm sứ Phong Khê (Trung Quốc) và Bát Tràng (Việt Nam), Hoàng Thế
Anh, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 6/2005.
Những công trình nêu trên, một số công trình nghiên cứu một cách tương
đối có hệ thống và toàn diện về cơ sở lý luận, thực trạng và phương hướng, giải
pháp phát triển LN, song phạm vi nghiên cứu chủ yếu là trên địa bàn cả nước
hay một vùng lãnh thổ mà tập trung nhất là vùng đồng bằng sông Hồng; còn lại
phần lớn các công trình chỉ đề cập tới một mặt, một khía cạnh nào đó có liên
quan tới phát triển LN nói chung. Đối với các tỉnh DHNTB, cho tới nay, mới
xuất hiện một số bài báo được đăng tải trên các trang web hoặc một số phương
tiện thông tin đại chúng của địa phương hoặc mới dừng lại ở các chương trình,
bản quy hoạch về khôi phục, phát triển LN của các tỉnh, chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về tiềm năng, thực trạng, xu thế
phát triển, những vấn đề đặt ra để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh
phát triển LN trên địa bàn.
7
3. NỘI DUNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình phát triển LN, trong đó có LN thủ
công truyền thống và LN mới với nhiều tổ chức kinh doanh hộ gia đình, tổ hợp
tác, hợp tác xã, doanh nghiệp đang tồn tại và phát triển trên địa bàn các tỉnh
DHNTB.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về LN thủ công truyền thống
ở các tỉnh DHNTB, từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu tình hình phát triển LN ở các tỉnh
DHNTB từ năm 2005 đến năm 2008.
4. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Mục tiêu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản: phạm trù LN; đặc điểm, vai trò của
LN đối với sự phát triển kinh tế, xã hội; các nhân tố ảnh hưởng và các quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển LN.
- Phân tích, đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển của LN ở các tỉnh
DHNTB, những khó khăn, tồn tại, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần
giải quyết.
- Đề xuất phương hướng và hệ thống các giải pháp để thúc đẩy LN ở các
tỉnh DHNTB phát triển trong những năm tới.
4.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa lý luận về LN, góp phần làm rõ khái niệm, vai trò, nhân tố
ảnh hưởng tới phát triển LN trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Phân tích tiềm năng phát triển LN ở các tỉnh DHNTB và những kết quả,
tồn tại, nguyên nhân trong quá trình phát triển LN trên địa bàn.
- Đề xuất một số phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát triển LN
ở các tỉnh DHNTB trong những năm tiếp theo.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm đổi mới của Đảng và các chính sách
của Nhà nước trong các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX và X.
8
- Thừa kế có chọn lọc các công trình có liên quan, các báo cáo đánh giá về
tình hình LN của các ngành, các địa phương ở các tỉnh DHNTB qua các năm.
- Sử dụng lý luận, phương pháp luận khoa học kinh tế Mác xít làm
phương pháp nghiên cứu cơ bản như điều tra, khảo sát, thống kê, phân tích, tổng
hợp,… để nghiên cứu và trình bày các nội dung đưa ra trong đề tài.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển LN.
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển LN ở các tỉnh DHNTB.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển LN ở
các tỉnh DHNTB
Sau đây là kết quả nghiên cứu của đề tài:
9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ
Một trong những nét đặc sắc của tổ chức kinh tế - xã hội ở nông thôn Việt
Nam là hình thành các LN. LN ở nước ta được hình thành và phát triển lâu đời.
Theo kết quả nghiện cứu của các nhà sử học, làng, xã Việt Nam xuất hiện từ thời
vua Hùng, dựa trên cơ sở những công xã nông thôn. Ở buổi đầu sơ khai, trong
một làng người dân sống bằng nghề nông nghiệp, về sau dần dần xuất hiện
những bộ phận cư dân sống bằng nghề khác và được tổ chức thành nghề nghiệp,
như nghề làm gốm, nghề đúc đồng, nghề dệt vải,… Cùng với thời gian, các nghề
phát triển thành LN.
1.1. QUAN NIỆM VỀ LÀNG NGHỀ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về LN, LN truyền thống, LN mới
1.1.1.1. Quan niệm về LN
Thuật ngữ LN từ trước tới nay đã được đề cập khá nhiều trong các sách,
báo với nội dung rộng hẹp khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, LN là làng cổ truyền làm nghề thủ công. Tuy nhiên,
không nhất thiết mọi người dân đều sản xuất hàng thủ công và ngay cả những người
làm nghề thủ công cũng có khi làm ruộng. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì LN
là làng tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi gà, lợn, nhưng ở đó đã
nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp
hay bán chuyên nghiệp, sống chủ yếu bằng LN đó 3
.
Có ý kiến cho rằng, LN là nơi quy tụ đa số hộ gia đình chuyên làm nghề sản
xuất thủ công lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề.
Tác giả Trần Minh Yến quan niệm, LN là một thiết chế kinh tế - xã hội ở
nông thôn, được cấu thành bởi yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian
3
Viện kinh tế học: Bảo tồn và phát triển LN ở vùng đồng bằng sông Hồng, tài liệu chuyên khảo, Hà Nội
tháng 12/1994, trang 7.
10
địa lý nhất định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ
công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế - xã hội và văn hóa 4
.
Những quan niệm khác nhau về LN nêu trên tiếp cận chủ yếu theo hướng
LN truyền thống, liên quan đến sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Song, với cách
nhìn rộng hơn, xuất phát từ thực tế phát triển kinh tế ở nông thôn Việt Nam, nhất
là trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra một số vấn đề cần nghiên cứu để có quan
niệm về LN phù hợp.
Thứ nhất, bên cạnh LN sản xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống thì cũng
xuất hiện các LN sản xuất nông nghiệp mà sản phẩm của nó mang tính đặc thù,
tên tuổi của các LN này đã ghi vào lịch sử, như làng nuôi gà chọi ở Hải Dương,
LN nuôi trâu chọi ở Đồ Sơn (Hải Phòng), LN nuôi chim cảnh, cá cảnh ở ngoại
thành Hà Nội, LN trồng cây cảnh ở Nghi Tàm, Quảng Bá (Hà Nội), LN trồng hoa
Ngọc Hà (Hà Nội), LN rau Trà Quế (Quảng Nam), … Như vậy, quan niệm về LN
chỉ hiểu trong giới hạn sản xuất tiểu thủ công nghiệp là không đầy đủ.
Thứ hai, ngày nay, khu vực kinh tế thứ ba (thương mại, du lịch, dịch vụ,
…) đang ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế
giới nói chung, Việt Nam và các LN nói riêng. Do đó, các nghề buôn bán, dịch
vụ, du lịch ở nông thôn đã và đang chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của mỗi
làng. Vì thế, trong LN không chỉ có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nông
nghiệp, mà còn có ngành thương mại, dịch vụ. Như vậy, trong LN sẽ có loại làng
một nghề và làng nhiều nghề, tùy theo số lượng ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế trong làng.
Thứ ba, trong quá trình đô thị hóa, một số làng ven đô biến thành phố,
phường, nhưng nhiều nơi nghề thủ công truyền thống vẫn tồn tại và phát triển.
Vì vậy, LN không chỉ giới hạn sau lũy tre làng mà còn mở rộng ở thành phố, thị
xã, thị trấn…
Thứ tư, thực tế ở nước ta, có những địa phương mà tất cả các làng
trong xã hoặc nhiều xã trong huyện cùng sản xuất một chủng loại hàng hóa
truyền thống hoặc cùng kinh doanh liên quan đến một nghề nông nghiệp và
có quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế - xã hội. Như vậy, LN không chỉ bó
4
Trần Minh Yến, LN truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB khoa học xã hội, Hà
Nội 2004, trang 11.
11
hẹp trong phạm vi hành chính của một làng mà còn mở rộng ở một số làng,
một tiểu vùng…
Từ thực tế đó, quan niệm LN cần phải hiểu rộng hơn, đầy đủ hơn, đó là:
làng nghề là một địa bàn hay khu vực dân cư sinh sống, có các hoạt động ngành
nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau, có số hộ,
số lao động, thu nhập từ ngành nghề này chiếm ưu thế so với số hộ, số lao động
và thu nhập của làng trong năm.
Các hoạt động ngành nghề nông thôn đã được nghị định số 66/2006/NĐ-CP
của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn quy định:
- Chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản.
- Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt
may, cơ khí nhỏ.
- Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn.
- Sản xuất hàng thủ công, mỹ nghệ.
- Cây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh.
- Xây dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ
sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
- Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề, tư vấn sản xuất, kinh doanh trong
lĩnh vực ngành nghề nông thôn.
Để xác định LN, một số tổ chức và các địa phương có LN đều đưa ra
những tiêu chí riêng dựa vào đặc điểm kinh tế LN của địa phương mình, do đó
chưa có sự thống nhất.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với tổ chức JICA (Nhật
Bản) điều tra để quy hoạch LN tiểu thủ công nghiệp Việt Nam năm 2002, đã quy
định tỷ lệ số hộ, số lao động, giá trị sản xuất, thu nhập so với tổng số toàn làng là
20%. Sau này, trong thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn về hướng dẫn thực hiện một số nội dung của nghị định số
66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn quy định tỷ lệ số hộ trên địa
bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn tối thiểu 30% tổng số lao
động của toàn làng.
12
Đối với các tỉnh đồng bằng sông Hồng (Hà Tây (cũ), Bắc Ninh, …) đưa ra
tiêu chí số hộ, số lao động làm nghề nông nghiệp ít nhất 50% so với tổng số hộ
và lao động trong làng. Giá trị sản xuất và thu nhập từ các ngành nghề phi nông
nghiệp đạt trên 50% so với giá trị sản xuất và thu nhập của toàn làng hàng năm.
Với các tỉnh DHNTB, mỗi tỉnh cũng có những tiêu chí cụ thể phù hợp với
đặc điểm của tỉnh.
Tỉnh Bình Định đưa ra tiêu chí: số hộ cùng ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp chiếm từ 20% trở lên hoặc số hộ lao động cùng ngành tiểu thủ công
nghiệp chiếm từ 30% trở lên so với số hộ và lao động trong làng.
Tỉnh Quảng Nam đưa ra tiêu chí: số hộ hoặc lao động làm nghề tiểu thủ
công nghiệp ở làng đạt 30% trở lên và giá trị sản xuất hoặc thu nhập từ sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở làng chiếm tỷ trọng trên 30% so với tổng số
toàn làng.
Tỉnh Quảng Ngãi đưa tiêu chí xét công nhận LN theo thông tư
66/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (đã nêu ở trên).
Như vậy, việc xác định tiêu chí LN hiện nay ở nước ta nói chung và
DHNTB nói riêng chưa thống nhất. Trên cơ sở quy định của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn và căn cứ vào thực tế LN Việt Nam, có thể xác định một số
tiêu chí cơ bản như sau:
1. Số hộ, lao động tham gia hoạt động ngành nghề tối thiểu 30% tổng số
hộ và lao động toàn làng.
2. Giá trị sản xuất và thu nhập từ hoạt động ngành nghề nông thôn chiếm
tỷ lệ 30% trở lên so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng.
3. Tuân thủ sự quản lý của chính quyền địa phương, chính sách và pháp
luật của Nhà nước.
4. Hình thức tổ chức và phương hướng hoạt động của các hộ, các cơ sở sản
xuất trong làng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Việc xác định những tiêu chí về mặt định hướng trên không phải là tuyệt
đối mà chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi mỗi làng thường có sự khác nhau về quy
mô sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm và số người tham gia vào
quá trình sản xuất. Mặt khác, sản xuất ở các LN luôn vận động, phát triển, do
13
vậy, các tiêu chí có thể thay đổi trong từng thời kỳ.
Hiện nay, LN được hiểu là bao gồm cả LN truyền thống và LN mới.
1.1.1.2. Quan niệm về LN truyền thống và LN mới
* Quan niệm về LN truyền thống
Qua nghiên cứu các ý kiến của các học giả và thực tiễn các LN truyền
thống, có thể quan niệm LN truyền thống với những nội dung chính như sau: LN
truyền thống trước hết là những LN đã tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử,
gồm một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống, truyền tải hệ thống giá trị về
văn hóa, kỹ thuật, mỹ thuật độc đáo của địa phương và mang tính lịch sử. LN
truyền thống hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ thủ công chuyên nghiệp, có
phường nghề, có quy trình công nghệ có mức độ tinh xảo nhất định, và phần lớn
dân làng sống chủ yếu bằng nghề đó.
Như vậy, LN truyền thống thường có những nét đặc trưng cơ bản sau đây:
- Có nghề truyền thống hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời (theo quy
định của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: nghề đã xuất hiện tại địa
phương trên 50 năm) 5
.
- Sản xuất tập trung trên một địa bàn dân cư (thôn, làng, bản, ấp, …).
- Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ có tay nghề giỏi.
- Kỹ thuật và công nghệ sản xuất mang tính đặc thù.
- Sản phẩm độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng, mang bản sắc văn hóa dân tộc.
- Có số hộ, số lao động làm nghề truyền thống chiếm tỷ lệ nhất định so
với số hộ và lao động toàn làng.
* Quan niệm về LN mới
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nói chung, việc giao lưu
kinh tế giữa các vùng, miền, quốc gia ngày càng mở rộng. Tình trạng sản xuất
khép kín trong từng làng, từng địa phương từng bước xóa bỏ. Vì vậy, một số
nghề truyền thống không còn giới hạn trong các làng đã từng gắn bó lâu đời mà
lan tỏa sang các làng khác, địa phương khác. Mặt khác, ở một số địa phương có
chủ trương phát triển công nghiệp nông thôn, chuyển một bộ phận sản xuất nông
5
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tư 116/2006/TT-BNN, Hướng dẫn thực hiện một số nội
dung của nghị định 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn.
14
nghiệp sang ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp nên đã cử lao động đi học
nghề ở nơi khác về dạy lại cho người dân ở địa phương mình. Từ đó, tiếp tục
nhân, cấy nghề và dần hình thành LN mới. Vậy, LN mới có thể hiểu là những
làng có ngành nghề phát triển trong những năm gần đây, được hình thành chủ
yếu do sự lan tỏa từ LN truyền thống hoặc do sự du nhập trong quá trình hội
nhập giữa các vùng, các địa phương và giữa các nước. LN mới cũng phải đạt tiêu
chuẩn LN mà địa phương đã quy định.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của LN
LN Việt Nam có lịch sử lâu đời, phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu
ngành nghề. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, LN có lúc thịnh, lúc
suy. Tuy nhiên, đến nay, nó vẫn mang một số đặc điểm cơ bản.
Thứ nhất, LN hình thành ở nông thôn, có nhiều ngành nghề và gắn liền
với sản xuất nông nghiệp.
Các LN, trước hết là LN truyền thống, đều ra đời ở nông thôn và tách ra
từ LN nông nghiệp. Lúc đầu, người lao động ở nông thôn do nhu cầu việc làm và
thu nhập đã làm thêm nghề thủ công bên cạnh làm nông nghiệp với tư cách là
nghề phụ trong các gia đình để tận dụng thời gian nhàn rỗi trong năm và đáp ứng
yêu cầu sản phẩm thủ công cho sản xuất nông nghiệp cũng như cho đời sống dân
cư. Khi lực lượng sản xuất phát triển tới một mức nào đó thì tiểu thủ công
nghiệp tách ra thành một ngành độc lập, từng bước vươn lên và trở thành ngành
sản xuất chính ở một số làng và hình thành nên LN. Song, để đảm bảo cuộc
sống, người dân bao giờ cũng làm thêm nghề nông hay buôn bán hoặc làm thêm
nghề khác. Sự kết hợp đa nghề này thường được thể hiện trong một làng hay
từng gia đình. Mặt khác, ở trong các LN, đại bộ phận các hộ chuyên làm nghề
tiểu thủ công nghiệp vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp. Họ nhận ruộng và giữ
ruộng khi được giao quyền sử dụng, nhận ruộng nhưng không làm ruộng hoặc
chỉ làm một phần nhỏ, còn hầu hết các khâu đều thuê người ở địa phương khác
đến sản xuất. Như vậy, LN và sản xuất nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Các LN tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động lúc nông nhàn,
đồng thời nó giải phóng bớt khỏi nông nghiệp sức lao động của các hộ nông dân
và khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ từ sản phẩm nông nghiệp.
Đến nay, LN Việt Nam có khoảng 200 loại sản phẩm và phát triển hầu hết
15