Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ
MIỄN PHÍ
Số trang
105
Kích thước
566.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1461

pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Khóa luận tốt nghiệp 1 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

LỜI MỞ ĐẦU

Trong đời sống xã hội, hợp đồng là một hình thức thiết lập quan hệ giữa người

với người. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã chứng minh đó là một

hình thức pháp lý thích hợp và hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá

và tiền tệ. Khi nền kinh tế phát triển, xã hôi văn minh thì việc điều chỉnh bằng pháp luật

quan hệ hợp đồng ngày càng cần thiết, càng được coi trọng và hoàn thiện.

Ở nước ta, việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng đã được áp dụng từ

lâu, song nó chỉ được hoàn thiện hơn và phát triển mạnh khi nước ta bước vào công

cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước.

Để đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế cần một hệ thống pháp luật thống nhất

để điều chỉnh quan hệ hợp đồng và để tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp luật khi đất

nước hội nhập kinh tế quốc tế, WTO, ngày 14/6/2005 Quốc hội khoá XI đã ban hành Bộ

luật Dân sự và Luật Thương mại có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/01/2006 để điều

chỉnh quan hệ hợp đồng. Việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005

là cần thiết và quan trọng, đã tiến một bước dài trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật

điều chỉnh quan hệ hợp đồng.

Trong các loại hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò quan trọng đối với

mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là quan hệ trao đổi hợp pháp mà tất cả các tổ chức

sản xuất, kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển của chúng.

Khi đến thực tập tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường, vấn đề ký kết và

thực hiện hợp đồng của Công ty đã thu hút sự quan tâm của em, trong đó hợp đồng mua

bán hàng hoá chiếm tới 90% tổng số các loại hợp đồng tại Công ty. Qua xem xét việc ký

kết và thực hiện hợp đồng tại Công ty, em thấy có nhiều điều cần quan tâm. Bởi vậy, em

đã chọn đề tài: "Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại

công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường" để làm luận văn tốt nghiệp. Quan

hệ hợp đồng mua bán hàng hoá không chỉ là quan hệ giữa các thương nhân trong nước

với nhau mà còn là quan hệ giữa các thương nhân trong nước với các thương nhân nước

ngoài. Song để tập trung vào nội dung cần bàn bạc, bài luận văn sẽ chỉ đề cập đến những

vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 2 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

Bố cục của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành

ba chương:

Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá

Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty

cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường

Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán

hàng hoá

Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình, khoa học của Thầy giáo -

Tiến sĩ Nguyễn Hợp Toàn cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô chú CB CNV công ty

cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu

đó.

Trong luận văn em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý thuyết và

thực tế; phương pháp duy vật biện chứng; từ phân tích, tổng hợp, đánh giá, nhận xét từ

đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp cho vấn đề cần giải quyết.

Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế với thời gian khảo sát thực tế chưa

nhiều nên những thiếu sót trong luận văn này là không thể tránh khỏi. Em rất mong

nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn có quan tâm đến vấn đề này để đề

tài được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 3 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

CHƯƠNG I

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

1. Quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế,

WTO

1.1. Kinh t ế th ị tr ườ ng và m ố i quan h ệ trong n ề n kinh t ế th ị tr ường

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các

yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa là

một kiểu tố chức kinh tế- xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán

trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn

nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức để thỏa mãn nhu

cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường

không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Vế cơ bản chúng có

cùng nguồn gốc và cùng bản chất.

Trong nền kinh tế thị trường nào thì các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu

thông hàng hóa đều được phản ánh và tác động một cách khách quan thông qua cơ chế

thị trường. Cơ chế thị trường chính là một tổ chức kinh tế , trong đó người sản xuất và

người tiêu dùng chịu sự tác động chi phối lẫn nhau qua thị trường. Thị trường là nơi gặp

gỡ của người mua và người bán, của người sản xuất và người tiêu dùng. Trong nền kinh

tế thị trường người sản xuất không chỉ sản xuất cái gì mình có mà phải sản xuất cái gì

thị trường cần. Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật của nền kinh tế hàng hóa.

Đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Thông qua các hoạt động

trao đổi mua bán, thị trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó

điều tiết sản xuất, điều tiết tiêu dùng. Chính "bàn tay vô hình" của thị trường làm cho cơ

cấu sản xuất, cơ cấu hàng hóa phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng về số lượng và

chất lượng. Nó xác lập mối quan hệ giữa người bán và người mua trên nguyên tắc cùng

có lợi. Thị trường cung cấp thông tin cần thiết cho nhà kinh doanh và tạo yếu tố cạnh

tranh làm động lực cho sự phát triển sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất

lượng sản phẩm.

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 4 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là tự do trao đổi các

sản phẩm hàng hóa giữa người mua và người bán. Người bán bao giờ cũng muốn bán

với giá cao, còn người mua bao giờ cũng muốn mua với giá thấp, do đó mà cần có sự

thống nhất ý chí, có sự thỏa thuận giữa người bán và người mua thể hiện qua hợp đồng.

Như vậy, hợp đồng về bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí giữa các bên tham

gia ký kết theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng không trái pháp luật.

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế của hệ thống các quan hệ hợp đồng, nếu

thiếu hợp đồng thì nền kinh tế không thể vận hành được.

1.2. Vai trò c ủ a h ợ p đồ ng trong n ề n kinh t ế th ị tr ường

Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp trước đây, hợp đồng kinh tế

được coi là công cụ cơ bản đế quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chỉ tiêu kế hoạch là

cơ sở để các bên ký kết hợp đồng kinh tế, do đó mà khi chỉ tiêu kế hoạch thay đổi, các

bên cũng phải thay đổi hợp đồng cho phù hợp. Vi phạm hợp đồng là vi phạm kế hoạch.

Trong điều kiện đó hợp đồng kinh tế chỉ là phương tiện để các đơn vị trao đổi sản phẩm

cho nhau một cách hình thức, ghi nhận sự cấp phát vật tư của Nhà nước cho các đơn vị

kinh tế và sự giao nộp sản phẩm của các đơn vị kinh tế cho Nhà nước mà thôi. Hợp

đồng kinh tế "mất đi giá trị đích thực của mình với tư cách là hình thức pháp lý chủ yếu

của quan hệ kinh tế".

Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận của các chủ thể

kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể sử dụng

pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các

chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chung của toàn xã hội.

Hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các

chủ thể kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có thể thực hiện được nếu

người sản xuất mua được nguyên vật liệu và ký được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của

mình. Đồng thời hợp đồng cũng cụ thể hóa, chi tiết hóa kế hoạch sản xuất mua bán, giá

cả, thời gian giao hàng...Như vậy nhu cầu sản xuất kinh doanh là do người kinh doanh

quyết định và thỏa thuận với khách hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi

nhuận.

Thông qua việc đàm phán ký kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt được

nhu cầu thị trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch sản

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 5 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua quá trình ký kết hợp đồng

các doanh nghiệp chủ động cân nhắc tính toán chênh lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh

tế của phương án kinh doanh.

Thông qua hợp đồng kinh tế mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ

kinh tế xã hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật.

Khi hợp đồng được ký kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán

giải quyết khi có tranh chấp.

2. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa

2.1. Pháp lu ậ t v ề h ợ p đồ ng ở Vi ệt Nam

2.1.1. Pháp luật về hợp đồng trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung

Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa ở miền

Bắc với các thành phần kinh tế còn nhỏ, phát triển chậm, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu

lại chịu hậu quả chiến tranh. Năm 1956, Nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời số

735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký kinh doanh (đăng trên công báo số 10 ngày

5/5/1956). Đây là một văn bản pháp luật hợp đồng có tên là "hợp đồng kinh doanh" điều

chỉnh quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể cam kết tự nguyện thực hiện kế hoạch của Nhà

nước nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, củng cố hậu phương vững chắc

làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội.

Cơ chế kinh tế thay đổi, kéo ntheo sự thay đổi của pháp luật. Ngày 4/1/1960 Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 004/TTg về Điều lệ tạm thời về chế độ hợp

đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Điều lệ này quy định

một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch Nhà nước và nhằm

thực hiện kế hoạch Nhà nước đồng thời thực hiện các nguyên tắc của chế độ hạch toán

kinh tế. Như vậy, trong thời gian này các cơ quan Nhà nước, các xí nghiệp đã lập và

thực hiện hợp đồng kinh tế không phải xuất phát từ lợi ích riêng của cơ quan, xí nghiệp

mình mà nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước, vì lợi ích của Nhà nước. Đây là đặc điểm

quan trọng nhất của hợp đồng kinh tế theo Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế. Đặc

trưng cơ bản của sự phát triển kinh tế theo kế hoạch tập trung cao.

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 6 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

Ngày 10/3/1975 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/CP ban hành

Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Đây là bản điều lệ chính thức đầu tiên về chế độ

hợp đồng của nước ta và nó có hiệu lực thi hành đến năm 1989. Để thực hiện hai Nghị

định trên Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản hướng dẫn việc thực hiện hợp đồng

kinh tế như: Quyết định số 113-TTg ngày 11/9/1965 và chỉ thị 17-TTg ngày 20/01/1967

của Thủ tướng Chính phủ...

Từ việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập

trung chúng ta thấy có nhận xét sau đây :

Một là, pháp luật hợp đồng khi đó là công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch

Nhà nước. Do nhà nước được coi là pháp lệnh nên việc ký kết và thực hiện hợp đồng

kinh tế là kỷ luật của Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế.

Hai là, hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ mang tính chất tổ

chức- kế hoạch, còn yếu tố tài sản chỉ là thứ yếu. Vì những nội dung chủ yếu mà các bên

thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế đều đã được xác định trong chỉ tiêu kế hoạch nhà

nước, ý chí của các bên chỉ là cụ thể hóa ý chí của nhà nước.

Ba là,chủ thể của hợp đồng kinh tế chỉ là các đơn vị tổ chức được giao chỉ tiêu kế

hoạch của nhà nước.

2.1.2. Pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc

tế, WTO

Xuất phát từ quan điểm đòi hỏi phải mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các

đơn vị kinh tế, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng

12/1986 đã ra quyết định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xóa bỏ tập trung

quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ

phát triển cơ sở kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế mới coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều

thành phần là một đặc trưng quan trọng, coi trọng việc sử dụng đúng đắn các quan hệ

hàng hóa- tiền tệ, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong việc tiếp

cận với nhu cầu thị trường. khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất kinh doanh,

nhằm thực hiện mục tiêu kế hoạch của doanh nghiệp. Cơ chế quản lý kinh tế mới đòi hỏi

phải rà soát lại tất cả các chính sách, chế độ, trong đó có pháp luật về hợp đồng kinh tế.

Vì vậy ngày 25/9/1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và

sau đó một loạt các văn bản như Nghị định số 17/HĐBT , Quyết định số 18/HĐBT ngày

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 7 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

16/01/1990 và nhiều văn bản hướng dẫn khác. Bộ luật Dân sự do Quốc hội thông qua

ngày 28/10/1995 có nhiều điều về hợp đồng dân sự; Luật Thương mại thông qua ngày

10/5/1997 cũng có những quy định về hợp đồng trong một số hành vi thương mại,

nhưng thực tế của các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại, Pháp lệnh hợp

đồng kinh tế vẫn là căn cứ áp dụng chủ yếu. Nội dung cụ thể trong chế độ pháp lý về

hợp đồng quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên có nhiều điểm không thống

nhất.

Theo quy luật kinh tế khách quan khi cơ sở kinh tế thay đổi đối với thành tựu to

lớn của sự phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế dẫn đến Pháp lệnh hợp đồng

kinh tế đã được ban hành từ năm 1989 đến nay lộ rõ nhiều bất cập. Trong điều kiện đó

việc hoàn thiện, đổi mới các quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng là vấn đề được

đặt ra hết sức cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hơn

nữa giao lưu kinh tế cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do thực tiễn

pháp luật hợp đồng không thống nhất , các quy định còn nằm rải rác trong nhiều văn bản

pháp luật khác nhau, chồng chéo, loại trừ nhau, tạo ra lỗ hổng pháp lý khiến cho người

áp dụng và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp dụng văn bản

pháp luật về hợp đồng. Vì thế ngày 14/6/2005 Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội khóa

XI thông qua, trong đó có chế định về hợp đồng là nền tảng thống nhất và đồng bộ để

điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng để

điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong các lĩnh vực cụ thể.

Trong lĩnh vực hợp đồng thương mại thì luật hiện hành điều chỉnh đó là Bộ luật

Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan.

Những quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng dân sự có tính nguyên tắc, là nội dung

cơ bản điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung. Những văn bản luật chuyên ngành

như: Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Du lịch, Luật Cạnh tranh…là

nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực cụ thể. Nguyên tắc áp dụng

luật là ưu tiên áp dụng các quy định của luật chuyên ngành trước, những vấn đề không

được quy định trong luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Kể từ ngày 1/1/2006 khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thì

Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 hết hiệu lực. Việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005

và Luật Thương mại 2005 cũng như chấm dứt vai trò của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 8 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

năm 1989 là cần thiết bởi hiện nay xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do

hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của nền kinh tế thế giới. Từ đó đòi hỏi mỗi quốc

gia hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước mình theo hướng đồng bộ và có sự tương

thích với luật pháp quốc tế. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau

càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại

khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang

pháp lý chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của

kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Trong xu

thế đó đòi hỏi luật pháp Việt Nam cũng phải theo kịp đời sống kinh tế đang diễn ra hết

sức sôi động, linh hoạt. Và một đặc điểm của luật pháp trong giai đoạn hiện nay đó là

phải nội luật hóa các điều ước quốc tế làm cho hệ thống pháp luật trong nước cũng

tương thích với luật quốc tế bảo đảm cho hội nhập quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam đã là

thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2006 và việc

hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu của WTO cũng là một trong các điều kiện để

nước ta có đầy đủ điều kiện để trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại

toàn cầu này.

2.2. Khái ni ệ m, đặ c đ i ể m c ủ a h ợ p đồng mua bán hàng hóa

2.2.1. Hợp đồng thương mại trong nền kinh tế thị trường

Cũng như những chủng loại hợp đồng khác, hợp đồng thương mại là sự thỏa

thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý trong

những quan hệ kinh doanh cụ thể.

- Trong hợp đồng, yếu tố cơ bản nhất là sự thể hiện ý chí, tức là sự ưng thuận

giữa các bên với nhau. Nguyên tắc này là nguyên tắc thỏa thuận và được coi là tiến bộ

của kỹ thuật pháp lý hiện đại.

Nguyên tắc thỏa thuận là hệ quả tất yếu của tự do hợp đồng, khi giao kết hợp

đồng các bên được tự do quyết định nội dung của hợp đồng, tự do xây dựng phạm vi

nghĩa vụ của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng ở tất cả các nước trên thế giới không

phải là tự do tuyệt đối mà là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng

hóa là giao dịch pháp lý hợp pháp, do vậy sự ưng thuận ở đây là lẽ công bằng, hợp pháp.

Hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu là giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức, đe dọa

hay mua chuộc.

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 9 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

Ý chí chỉ phát sinh nghĩa vụ khi người giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực

hành vi để thành lập hợp đồng. Các bên giao kết hợp đồng thông qua người đại diện của

mình (có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền). Người

đại diện chỉ được giao kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện.

Phạm vi thẩm quyền của người đại diện được quy định bởi pháp luật, điều lệ doanh

nghiệp hay văn bản ủy quyền. Hợp đồng được giao kết bởi người không có thẩm quyền

đại diện thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với cá nhân, tổ chức được đại diện.

- Mọi hợp đồng đều phải có đối tượng xác thực. Đối tượng của hợp đồng phải

được xác định rõ rệt, phải có thể thực hiện được và hợp pháp. Nếu đối tượng của hợp

đồng là bất hợp pháp thì hợp đồng vô hiệu. Đó là một nguyên tắc cơ bản của luật hợp

đồng được thừa nhận chung trên thế giới. Sau khi hợp đồng được thành lập với đầy đủ

các yếu tố thì hợp đồng có hiệu lực ràng buộc, các bên bắt buộc phải thực hiện các cam

kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm sẽ dẫn đến tranh chấp pháp lý mà bên vi phạm sẽ

phải gánh chịu. Hợp đồng được thành lập hợp pháp có hiệu lực ràng buộc đối với cơ

quan tài phán được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, xử lý các vi phạm của

hợp đồng bằng tòa án hay trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản mà các bên đã thỏa

thuận trong hợp đồng.

2.2.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa

Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một

vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền hay

nghĩa vụ của các bên đó. Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự

một cách khái quát như sau: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác

lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388).

Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng cụ thể, mặt khác hợp đồng

mua bán hàng hóa là hình thức pháp lý của hoạt động mua bán hàng hóa. Với "mua bán

hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển

quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho

người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên" (Khoản 8 điều 3 Luật Thương mại

2005).

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Khóa luận tốt nghiệp 10 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa muốn có hiệu lực được pháp luật bảo vệ thì

phải tuân theo những quy định của pháp luật về các điều khoản có hiệu lực của hợp

đồng.

Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thường thì các bên giao

kết phải có đầy đủ năng lực hành vi.

Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, tức là nó xuất

phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận của hợp đồng đó.

Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối

tượng hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên

cạnh đó nội dung của hợp đồng cần cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng

phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thực hiện được

thì hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa

vụ của các bên.

Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù

hợp với những quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng mua bán hàng hóa.

Quan điểm trên cho thấy trong điều kiện cơ chế kinh tế mới, Nhà nước có quan

niệm mới về hợp đồng mua bán hàng hóa, quan niệm chuyển từ thương nhân chỉ được

làm những gì nhà nước cho phép sang được làm những gì nhà nước không cấm, từ đó

rút ra những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong giai đoạn hiện nay như

sau:

2.2.3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa

Về chủ thể của hợp đồng, theo Luật thương mại 2005, hợp đồng thương mại có

thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá

nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa

bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra,

hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên

quan đến thương mại. Các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp có thể bao gồm các

doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty nhà nước,

và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể

SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!