Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến mức ăn được của Lợn nái trong thời kỳ tiết sữa
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
10 Tạp chí chăn nuôi số 12 – 09
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái http:// www.lrc-tnu.edu.vn
Nhân tố ảnh hưởng đến mức ăn được của lợn nái
trong thời kỳ tiết sữa
Nguyễn Sinh*
ợn nái bị loại thải nhiều, tuổi sử dụng ngắn
thường do năng suất sinh sản thấp hoặc cấu hình
chân không vững (thường xảy ra khi mới cai sữa
con do mức dinh dưỡng ăn vào thấp). Vì vậy khi cai
sữa con, lợn mẹ thường trong tình trạng “dị hoá” (sụt
cân), ảnh hưởng xấu cho lứa đẻ sau, như chậm động
dục lại (ít con được phối giống trong vòng 7 ngày sau
cai sữa) khả năng sống của phôi kém nên số con sinh
ra ở lứa sau thấp.*
Về cơ chế sinh vật học
Sữa lợn mẹ cung cấp 75% tổng nhu cầu năng
lượng (NL). Glucose là chất dinh dưỡng chuyển hoá
quan trọng nhất trong quá trình sinh sữa (70% tổng
lượng glucose do tuyến vú sinh ra). Trong 7 ngày đầu
tiên tiết sữa, mức ăn được thường không đáp ứng đủ
nhu cầu NL, vì vậy mỡ dự trữ của cơ thể được huy
động (có thể đạt hiệu quả sử dụng đến 88%). Nhu cầu
về NL trong ngày tiết sữa đầu tiên khoảng 10.000 -
12.000 kcal ME/ngày, ngày tiết sữa thứ 14 - 18 tăng
lên 18.000 - 20.000 kcal ME/ngày. Tốc độ sinh trưởng
của lợn con phụ thuộc vào năng suất và thành phần sữa
mẹ. Lợn con cần khoảng 4g sữa để tạo ra 1g tăng
trọng. Như vậy, cần có 10 kg sữa/ngày để đạt mức
tăng trọng ngày là 2,25 kg/ổ (ví dụ 10 lợn con, mỗi con
250g/ngày).
Tổng nhu cầu lysine là 26g/ngày (để đạt tốc độ
sinh trưởng 1kg/ổ/ngày),Nếu ổ có 10 lợn con, cần
58,5g/ngày, nhu cầu cho duy trì của lợn mẹ khoảng
2,5g/ngày, như vậy tổng nhu cầu lysine ăn vào cần 61
g/ngày. Nếu không đủ lysine, sẽ huy động từ protein
của cơ thể. Lợn đẻ lứa đầu cần đủ lysine để đáp ứng
nhu cầu tiếp tục phát triển mô cơ của mẹ. Nếu thiếu
lysine trong lứa sữa đầu, sẽ hao hụt protein trong cơ
thể (gây chậm động dục lại sau đẻ, giảm số con sinh
ra/ổ ở lứa đẻ sau). Hao hụt protein cơ thể trong tuần
đầu sau đẻ có thể chiếm 45% tổng mức protein được
* Hội Chăn nuôi Việt Nam.
huy động trong toàn kỳ tiết sữa nuôi con. Vì vậy, rất
cần giúp cho lợn đẻ lứa đầu tăng mức ăn được sau đẻ.
Cần cho lợn ăn mức NL cao để sử dụng tối đa mức
lysine cao trong khẩu phần (KP) dành cho lợn đẻ lứa
đầu đang nuôi con (với những ổ 10 lợn con, có thể
gửi bú nhờ). Tăng thêm mức ăn được 1kg/ngày (ví dụ
4,5 kg đến 5,5 kg/ngày) cho lợn nái đẻ lứa đầu có thể
tăng thêm 1 lợn con/ổ cho lứa đẻ thứ hai).
Lượng chất dự trữ của cơ thể (cả protein để tạo
mô nạc và mỡ lưng) lúc lợn đẻ và cai sữa có tác động
lớn đến năng suất sinh sản. Người ta cho rằng lợn nái
cân nặng dưới 150 kg sẽ động dục lại chậm hơn 5 - 7
ngày so với những lợn có thể trọng cao hơn. Để bắt
đầu một chu kỳ sinh sản mới, lợn nái cần có thể trạng
ở dạng “đồng hoá” (béo tốt vừa phải). Yếu tố gây ảnh
hưởng xấu nhất đến mức ăn được khi nuôi con là cho
lợn nái ăn quá nhiều khi có chửa (lợn béo phệ) và
nhiệt độ cao trong chuồng nuôi lợn đẻ và stress
chuyển hoá. Để chống táo bón, cần cung cấp đủ
nguồn chất xơ giữ nước, cung cấp nước có chất lượng
tốt và cân bằng khoáng.
Đẻ: Thời gian đẻ thường là 20 - 30 phút. Nếu
đẻ khó (cơ dạ con co bóp kém, táo bón, sốt, uống ít
nước, glucose huyết thấp, viêm vú): lợn mẹ mất sức,
giảm mức ăn được.
Với lợn chửa: Tăng trọng nhiều sẽ tăng hao
mòn cơ thể, giảm mức ăn được khi nuôi con. Lượng
mỡ tăng khi chửa sẽ được huy động khi nuôi con nên
làm giảm mức ăn được. Nái khi đẻ có mỡ lưng dày (>
25 mm): giảm mức ăn được 2,5 - 5,0% so với nái
nhiều nạc (18-20 mm).
Với lợn con: Xử lý lợn con ngày đầu sau
sinh: làm trở ngại việc bú của chúng và tập tính mẹ:
con (có thể giảm mức ăn được của lợn mẹ ngày đầu
tiết sữa nuôi con).
Tuổi cai sữa: Khả năng tiết sữa cao nhất vào
ngày 18-21. Cai sữa trước thời gian này sẽ giảm mức
L