Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nhận thức của sinh viên Trường Đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản
PREMIUM
Số trang
148
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
736

Nhận thức của sinh viên Trường Đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

_________________

TRẦN THANH NGUYÊN

NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG

VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. BÙI NGỌC OÁNH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007

LỜI CẢM ƠN

--------------

Luận văn này được hoàn thành là nhờ sự động viên, giúp đỡ và hướng dẫn

tận tình của quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 15, của quý thầy

cô ở Phòng Khoa học Công nghệ – Sau Đại học và các bạn học viên lớp Cao học

Tâm lý học khóa 15 trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, của Ban

Giám hiệu và các thầy cô giáo ở các khoa, phòng trường Đại học Tiền Giang, của

các bạn đồng nghiệp và sinh viên các lớp đại học khóa 06 trường Đại học Tiền

Giang. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô và các bạn học viên đã

động viên, giúp đỡ, cộng tác để tác giả hoàn thành bản luận văn này.

Đặc biệt, tác giả mong muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc gởi đến thầy giáo

– Phó Giáo sư Tiến sĩ BÙI NGỌC OÁNH – người đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ và

hướng dẫn chu đáo để tác giả hoàn thành bản luận văn này.

Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc rằng bản luận văn này còn nhiều thiếu

sót, tác giả rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của quý thầy cô và các bạn

đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn.

Mỹ Tho, ngày 15 tháng 09 năm 2007

Tác giả

TRẦN THANH NGUYÊN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn này là sản phẩm của chính mình, không sao chép của

các tác giả khác. Nếu có gì sai trái, bản thân xin chịu hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBGV: Cán bộ giáo viên

LTQĐTD: Lây truyền qua đường tình dục

KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình

NSP: Ngành ngoài sư phạm

SKSS: Sức khỏe sinh sản

SP: Ngành sư phạm

SV: Sinh viên

SVSP: Sinh viên ngành sư phạm

SVNSP: Sinh viên ngành ngoài sư phạm

UNICEF: Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc

UNFPA: Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc

WHO: Tổ chức Y tế thế giới

%: Phần trăm

f: tần số

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sự phát triển của thanh thiếu niên luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam.

Bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, số thanh thiếu niên ở nước ta hiện nay ở độ tuổi

14–25 là nhóm đông nhất (chiếm khỏang 24,5 phần trăm (%) dân số – theo số liệu Tổng

điều tra dân số năm 1999). Vì thanh thiếu niên đặc biệt là thanh niên sinh viên có tiềm năng

to lớn quyết định sự lớn mạnh và thịnh vượng của đất nước nên việc việc nắm được những

vấn đề cốt lõi trong sự phát triển của họ là hết sức quan trọng.

Giáo dục SKSS là vấn đề hết sức mới mẻ, lý thú, tế nhị, nhạy cảm thu hút sự quan tâm

của nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới các vấn đề về SKSS trở thành vấn

đề nổi cộm ở nhiều nước. Hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 15 triệu trẻ em gái từ 15

đến 19 tuổi sinh con, chiếm 10% tổng số trẻ em sinh ra trên tòan thế giới. Trong số các

trường hợp mắc các bệnh lây qua quan hệ tình dục cứ 20 người mắc bệnh thì có 1 người ở

lứa tuổi vị thành niên và 1/2 trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV/AIDS là những người

dưới tuổi 25. Ở Việt Nam hiện nay, cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến SKSS

vị thành niên . Tình trạng nạo, phá thai ở lứa tuổi vị thành niên và thanh niên ngày một gia

tăng.

Ở Việt Nam, kể từ Hội nghị Quốc tế “Dân số và phát triển”, hàng loạt các cuộc nghiên

cứu về SKSS đã được thực hiện. Hướng nghiên cứu SKSS ở nhóm dân số trẻ (15–24 tuổi)

cũng mới thực sự được quan tâm và phat triển trong thời gian gần đây. Trong đó, các công

trình nghiên cứu về nhận thức sức khỏe sinh sản của sinh viên đại học nhất là ở khối ngành

sư phạm cũng còn ở giai đoạn khởi đầu. Đây là việc làm cần thiết để chuẩn bị cho sinh viên

đương đầu với những vấn đề của cuộc sống liên quan đến SKSS của họ. Thêm nữa, sự hiểu

biết thiếu đầy đủ, đúng đắn về SKSS có thể đẩy các sinh viên vào nguy cơ tình dục không

lành mạnh, không an toàn; có thể đẩy các bạn gái vào nguy cơ có thai ngoài ý muốn hoặc

mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục kể cả HIV/AIDS... Nhận thức của lớp trẻ trong

khu vực về các vấn đề SKSS bao gồm tình dục, chức năng sinh sản, các biện pháp tránh

thai, quan hệ tình dục an toàn.... còn nhiều hạn chế. “Ở Việt Nam, theo thống kê có 40%

thanh thiếu niên cho biết rằng họ không hiểu gì về các biện pháp tránh thai” [5,tr.12]. Sự

thiếu hiểu biết chung về quá trình sinh sản và bản năng sinh dục của con người cùng với

quan hệ tình dục trước hôn nhân có xu hướng ngày một tăng khiến lớp trẻ phải đối mặt với

các nguy cơ nói trên.

Cung cấp thông tin và giáo dục SKSS hay giáo dục sức khỏe tình dục có thể giúp cho

lớp trẻ tự khám phá các quan điểm, tiêu chuẩn và sự lựa chọn riêng đồng thời nâng cao kiến

thức và hiểu biết về vấn đề SKSS. Điều đó giúp cho lớp trẻ có một cuộc sống lành mạnh và

hạnh phúc, ngăn ngừa những nguy cơ nói trên và nâng cao đời sống và SKSS sau này. Do

đó, có thể nói việc nhận thức về SKSS có tác động sâu rộng và lâu dài với thái độ và hành vi

của sinh viên.

Sinh viên đại học Tiền Giang tương lai sẽ trở thành kỹ sư, giáo viên, cán bộ công chức có

trình độ cao. Do đó, nhận thức, hành vi của họ không những có tác dụng với cuộc sống của

chính họ mà với sinh viên khối ngành sư phạm còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới học sinh của họ sau

này. Nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên nhất là sinh viên khối ngành sư

phạm thiết nghĩ là việc làm cần thiết nhằm giúp cho họ có một cuộc sống lành mạnh, hạnh

phúc, ngăn ngừa các nguy cơ nói trên và nâng cao được đời sống và sức khỏe sau này cho nhiều

thế hệ.

Để thực hiện được điều đó, bên cạnh sự tác động, phối hợp ...của các lực lượng giáo

dục trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các sinh viên, sự nhận thức của chính

sinh viên để trên cơ sở đó có hành động phù hợp về vấn đề sức khỏe sinh sản không những

đem lại hiệu quả thiết thực trong nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân, gia đình và

xã hội mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc trang bị kiến thức cho các em học sinh ở các

nhà trường phổ thông về vấn đề này.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đó chính là lý do để bản thân chọn đề tài "Nhận

thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản” – vấn đề mà bấy

lâu nay bản thân rất tâm đắc khi tham gia giảng dạy bộ môn tâm lý học-giáo dục học ở

trường sư phạm, tham gia chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ

sở cũng như khi cộng tác tại trung tâm tư vấn dân số gia đình trẻ em trong tư vấn sức khỏe

sinh sản vị thành niên và thanh niên cho thanh thiếu niên ở địa phương. Hy vọng qua việc

nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp bản thân tích lũy thêm kiến thức và kinh nghiệm của mình

trong công tác tại đơn vị cũng như thực hiện tốt hơn vai trò của cộng tác viên tại trung tâm

tư vấn.

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng nhận thức của sinh viên trường Đại học Tiền Giang về sức khỏe

sinh sản; từ đó đề xuất một số biện pháp cụ thể góp phần nâng cao nhận thức về SKSS cho

sinh viên.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu

3.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS

3.3. Đề xuất một số biện pháp cơ bản góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên

trường đại học Tiền Giang về SKSS

4. Giới hạn đề tài

4.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài này chỉ nghiên cứu mức độ nhận thức

của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS

4.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chủ yếu ở đối tượng là sinh

viên đại học với số lượng là 332 sinh vin thuộc khoa sư phạm, khoa cơ bản thuộc năm thứ

nhất.

4.3. Giới hạn về không gian nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu sinh viên thuộc hệ

đào tạo chính quy, học tại cơ sở chính và cơ sở 1 của trường.

5. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu

5.1. Khách thể nghiên cứu

Hoạt động giáo dục SKSS cho sinh viên hệ đại học chính quy thuộc khoa sư phạm

và khoa cơ bản năm thứ nhất trường đại học Tiền Giang.

5.2. Đối tượng nghiên cứu

Nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS.

6. Giả thuyết khoa học

- Nhận thức của sinh viên hệ đại học chính quy trường đại học Tiền Giang còn chưa

đầy đủ ở các nội dung cơ bản của SKSS và có sự khác nhau giữa sinh viên ngành sư phạm

(SVSP) và sinh viên ngành ngoài sư phạm (SVNSP).

- Có thể nâng cao nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS bằng

việc cung cấp thông tin, kiến thức giáo dục giới tính, giáo dục dân số, giáo dục SKSS và

phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên trong tiếp cận SKSS.

7. Phương pháp nghiên cứu

Căn cứ vào mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã lựa chọn và sử

dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan về SKSS

để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.

7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

7.2.1. Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu câu hỏi: Xác định thực trạng nhận

thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS. Đây là phương pháp nghiên cứu chính

mà tác giả sử dụng trong thực hiện luận văn.

7.2.1.1. Mục đích khảo sát

Khảo sát thực trạng về mức độ nhận thức của SV đại học Tiền Giang về SKSS

ở hai khoa Sư phạm và khoa Cơ bản. Kết quả khảo sát sẽ là cơ sở để đề xuất các giải pháp

nhằm nâng cao nhận thức về SKSS của SV.

7.2.1.2. Nội dung khảo sát

Khảo sát hướng vào các nội dung cơ bản của SKSS gắn với đối tượng thanh

niên SV:

- Khái niệm SKSS, giới tính;

- Tình bạn, tình yêu, hôn nhân, luật hôn nhân;

- Tình dục;

- Nạo phá thai và các con đường nhiễm bệnh LTQĐTD;

Bên cạnh đó còn khảo sát:

- Đánh giá của SV về nhận thức SKSS

- Nguyên nhân ảnh hưởng đến nhận thức của SV về SKSS.

- Mức độ ảnh hưởng của các nguồn thông tin giúp SV có hiểu biết về SKSS.

- Các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về SKSS của SV

Cấu trúc bảng hỏi: Bảng hỏi được xây dựng dựa vào các nội dung cơ bản về

SKSS tập trung vào việc biết, hiểu và vận dụng của SV. Trong đó có các câu hỏi là các tình

huống giả định để tìm hiểu khả năng vận dụng kiến thức về SKSS của SV.

7.2.1.3. Đối tượng khảo sát

Để tìm hiểu thực trạng nhận thức của SV trường đại học Tiền Gang về

SKSS, chúng tôi thực hiện khảo sát trên toàn bộ SV hệ đại học chính quy thuộc năm thứ I ở

hai khoa Sư phạm và khoa Cơ bản (Vì trường đại học Tiền Giang mới tuyển sinh đại học từ

năm học 2006 – 2007), gồm SV của 5 lớp: ToánA, ToánB, Ngữ văn (thuộc khoa Sư phạm)

và Quản trị Kinh doanh, Tài chánh Kế toán (thuộc khoa Cơ bản).

- Tổng số phiếu phát ra: 360 phiếu

- Tổng số phiếu thu vào: 332 phiếu

- Số phiếu hợp lệ là 332 phiếu và được phân bố như sau:

Lớp Nam Nữ Tổng cộng

Đại học ToánA 18 21 39

Đại học ToánB 18 22 40

Đại học Ngữ văn 10 28 38

Đại học Quản trị kinh doanh 40 32 72

Đại học Tài chánh Kế toán 34 109 143

Cộng 120 212 332

Với số phiếu phân bố như trên thì:

Sinh viên ngành sư phạm (SVSP) có: 117 phiếu

Trong đó: Nam sinh viên có: 46 phiếu

Nữ sinh viên có: 71 phiếu

Sinh viên ngành ngoài sư phạm (SVNSP): 215 phiếu

Trong đó: Nam sinh viên có: 74 phiếu

Nữ sinh viên có: 141 phiếu

Đồng thời chúng tôi cũng khảo sát trong đối tượng cán bộ giáo viên (CBGV)

của trường với số lượng 47 người là cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm

ở các phòng, khoa trung tâm của trường đề làm rõ hơn nhận thức của SV về SKSS.

7.2.1.4. Thời gian và địa bàn khảo sát

Khảo sát nhận thức của SV đại học Tiền Giang được tiến hành từ tháng 10 năm

2006, thực hiện trên 5 lớp SV đại học chính quy thuộc khoa Sư phạm và khoa Cơ bản tại cơ

sở chính và cơ sở 1 của trường.

7.2.1.5. Xử lý kết quả khảo sát

Phân tích số liệu qua khảo sát được thực hiện bằng chương trình SPSS 11.5 của

Windows để tính tần số, tỉ lệ phần trăm, .... để đưa ra nhận xét và bàn luận, đặc biệt là thực

trạng nhận thức về SKSS của SVSP và SVNSP.

7.2.2. Phương pháp trò chuyện: Hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng phiếu câu

hỏi trong việc làm rõ thực trạng nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về

SKSS.

7.2.3. Phương pháp quan sát: Hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi

trong việc nắm thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Sư phạm và khoa Cơ bản về SKSS.

7.2.4. Phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả điều tra được.

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề sức khỏe sinh sản (SKSS) là vấn đề khá mới mẻ, lý thú, nhạy cảm. Vấn đề

này đã thực sự thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy, từ việc nhận

thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục dân số cho thế hệ trẻ, và kể từ sau Hội nghị

quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại Cairo, Ai Cập năm 1994 (ICPD), chương trình

dân số chuyển hướng sang quan tâm nhiều hơn đến chất lượng dân số, trong đó trọng tâm là

nội dung chăm sóc SKSS. Hầu hết các nghiên cứu về SKSS ở các nước trên thế giới và ở

Việt Nam thường hướng về đối tượng thanh, thiếu niên và nhất là vị thành niên và thường là

học sinh ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Có thể nói, việc nghiên cứu SKSS nói chung và nghiên cứu SKSS vị thành niên

đã được tiến hành rất sớm trên thế giới, nhất là ở các quốc gia phát triển nhưng thường được

gọi với những tên gọi khác nhau chẳng hạn như sức khỏe vị thành niên hay giới tính, tình

dục thanh thiếu niên. Có lẽ, kể từ sau Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại

Cairo, Ai Cập năm 1994 (ICPD) khi đã có định nghĩa chính thức về SKSS thì việc nghiên

cứu SKSS nhất là cho đối tượng thanh thiếu niên đang là “mối quan tâm của không những

các nhà khoa học, các nhà giáo dục, các nhà quản lý xã hội mà cả các bậc cha mẹ được đẩy

lên một trình độ mới”[27,tr.426].

Hướng nghiên cứu SKSS trong đối tượng thanh thiếu niên ở nước ngoài thường

tập trung nghiên cứu về những vấn đề cụ thể, nhạy cảm của SKSS như vấn đề nạo phá thai,

sinh đẻ sớm, vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân, các bệnh LTQĐTD đã cho chúng ta

thấy những “như những con số biết nói” thật bất ngờ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)

“hàng năm có khoảng 20 triệu ca nạo phá thai không an toàn. Ở Châu Phi thai nghén ngoài

dự định dao động từ 50% - 90% trong số vị thành niên chưa chồng và 25% - 40% trong số

vị thành niên có chồng” [27,tr.428].

Theo các nghiên cứu ở nhiều nơi trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, đã chỉ

ra thực trạng nhận thức về SKSS ớ lứa tuổi thanh thiếu niên là “nhận thức của lớp trẻ trong

khu vực-dù đã kết hôn hay chưa-về các vấn đề SKSS bao gồm tình dục, chức năng sinh sản,

các biện pháp tránh thai, quan hệ tình dục an toàn... còn nhiều hạn chế” [5,tr.12].

Thanh thiếu niên thường không biết cơ thể họ thực hiện chức năng sinh dục và sinh

sản như thế nào và thường mong muốn có những trao đổi với một người lớn tuổi có hiểu

biết vấn đề và nhất là không chỉ trích khi họ nêu thắc mắc tương đối chi tiết về vấn đề này.

Thanh thiếu niên chưa có gia đình thường không biết, hoặc không tiếp cận được

những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và như vậy nguy cơ mang thai ngoài ý muốn hoặc mắc

bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả lây nhiễm HIV/AIDS.

Đồng thời thông tin về về tình dục, sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên

hầu như không có và việc thảo luận về tình dục thường bị cấm kỵ. Nhiều người lớn còn nghĩ

rằng việc đưa giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên vào chương trình học sẽ khiến lớp trẻ có

quan hệ tình dục sớm hơn và nhiều hơn. Tuy nhiên hàng loạt nghiên cứu cũng cho thấy,

thông qua việc nghiên cứu và giáo dục SKSS hay giáo dục sức khỏe tình dục sẽ làm cho

“thanh thiếu niên đã có quan hệ tình dục chấp nhận thực hiện những hành vi tình dục an

toàn hơn, cũng như lớp trẻ đã bắt đầu quan hệ tình dục muộn hơn hoặc giảm bớt hoạt động

tình dục nói chung” [5,tr.11].

Cũng qua các nghiên cứu trên cho thấy ở một số nước trong khu vực, cha mẹ được

xem là những người có trách nhiệm chính trong việc giáo dục SKSS cho vị thành niên và

thanh niên. Nhưng trên thực tế, do việc việc thiếu hiểu biết chính xác hoặc không biết cách

nói chuyện với con cái về chủ đề trên khiến lớp trẻ thích thu lượm những thông tin từ những

người khác hay nguồn khác như bạn bè đồng lứa, phương tiện truyền thông không được

kiểm soát hơn là từ cha mẹ. Và lẽ tất nhiên chính điều đó đã gây cho các em những hệ lụy

không mong muốn.

Đáp ứng chương trình hành động quốc tế và thực hiện chiến lược quốc gia về dân số

và chăm sóc SKSS, ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ XX, hoạt động giáo dục dân số

cũng đã chuyển hướng sang giáo dục SKSS nói chung và SKSS cho vị thành niên nói riêng.

Theo đó đã có hàng loạt các cuộc nghiên cứu về SKSS đã được thực hiện. Đặc biệt hướng

nghiên cứu về nhận thức, thái độ, hành vi về SKSS ở nhóm dân số trẻ từ 15 tuổi đến 24 tuổi

cũng mới thực sự được quan tâm và phát triển trong những năm gần đây cùng với quá trình

hội nhập và đổi mới. Mặc dù còn khá mới mẻ nhưng chúng ta đã sớm nhận ra vị trí quan

trọng của giai đoạn 10 -19 tuổi (trong đó có đối tượng SV) trong quá trình phát triển của

cuộc đời mỗi con người. Do vậy, chỉ hơn mười năm qua cùng với sự lãnh đạo của Đảng và

Nhà nước, sự vào cuộc của các nhà khoa học, sự hỗ trợ về mặt tài chính và khoa học của các

tổ chức quốc tế, đã có hàng chục công trình và đề tài nghiên cứu về các vấn đề cơ bản của

SKSS nói chung và SKSS vị thành niên nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu đa phần

thường được tiếp cận dưới góc độ Y tế - bệnh học và thời gian qua chúng ta cũng chưa có

một dự án nào một cách toàn diện với quy mô quốc gia về SKSS vị thành niên.

- Điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) mang tính chất rộng lớn

vào năm 2003 do Bộ Y tế, Tổng cục thống kê, , WHO thực hiện đã mô tả tương đối đa

dạng về các mối quan hệ bạn bè, SKSS và vấn đề tình dục; quan niệm, thái độ, hành vi và

trải nghiệm của thanh thiếu niên về các vấn đề SKSS. Đồng thời, cũng qua báo cáo điều tra

đã nêu lên nhận thức, kiến thức và nguồn thông tin về SKSS như nhận thức về 4 chủ đề

SKSS: Các bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD); Hiểu biết về chu kỳ kinh

nguyệt; Nhận thức và sử dụng các biện pháp tránh thai; Việc sử dụng bao cao su.

- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Đề xuất và thử nghiệm giải pháp đưa giáo dục giới tính

vào trường trung học tại thành phố Hồ Chí Minh”do Sở Khoa học công nghệ, Trung tâm tư

vấn tâm lý gia đình và trẻ em thành phố Hồ Chí Minh thực hiện vào năm 2004 đã nêu thực

trạng về nhận thức và hành vi của trẻ vị thành niên ở bậc phổ thông tại thành phố Hồ Chí

Minh xung quanh các vấn đề giới tính, tình yêu, tình dục và SKSS đồng thời cũng đề xuất

và thử nghiệm các giải pháp đưa giáo dục giới tính vào trường trung học học tại thành phố

Hồ Chí Minh.

- Hội thảo Khảo sát về vấn đề giới tính và tình dục tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà

Nẵng và Nha Trang do Viện Khoa học xã hội tổ chức vào tháng 10/1996 tại thành phố Hồ

Chí Minh.

Hầu hết các nghiên cứu trên khi xem xét, đánh giá về nhận thức về SKSS ở lứa tuổi

thanh thiếu niên đều cho thấy “một số lượng lớn các thanh thiếu niên thiếu hiểu biết hoặc

hiểu biết sai lệch về các vấn đề giới tính và tình dục” [40,tr.20] và “nhiều thông tin về tình

dục và giới tính trong đó có nhiều nguồn thông tin không lành mạnh có ảnh hưởng đến hành

vi tình dục và gây nhiều hậu quả rất lớn cho thanh thiếu niên” [40,tr.21]

Các công trình nghiên cứu trên đối tượng SV về SKSS ở các trường đại học thường

không nhiều chủ yếu là tập trung nghiên cứu những vấn đề cụ thể của SKSS. Có thể kể ra

một vài nghiên cứu sau đây:

- Quan niệm về sự chung thuỷ trong tình yêu của SV hiện nay của tác giả Lê Thị

Bừng nghiên cứu trên 143 sinh viên ở hai trường cao đẳng sư phạm Hưng Yên và đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn cho thấy đa số SV có quan niệm đúng về tình yêu, trong đó

gần 60,14% cho rằng yếu tố đầu tiên trong tình yêu là phải có phẩm chất chung

thủy....[7,tr.19-21]

- Quan niệm của SV về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân của tác giả Nguyễn

Ánh Hồng nghiên cứu trên 230 SV ở 3 trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đại

học Khoa học Tự nhiên và đại học Kinh tế đã phản ánh xu hướng dễ chấp nhận quan hệ tình

dục trước hôn nhân trong SV hiện nay, quan niệm về hôn nhân và tình yêu của họ thường

thoáng hơn [20,tr.18-20]

Các công trình nghiên cứu về nhận thức SKSS đối với SV đại học sư phạm cũng

đang còn ở giai đoạn khởi đầu.

- Tác giả Trần Thị Minh Ngọc với công trình nghiên cứu về “Khảo sát nhận thức của

sinh viên đại học sư phạm về SKSS” vào năm 2004 ở 1440 SV thuộc bốn trường đại học sư

phạm: Thái Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vinh đại diện cho các trường đại học

sư phạm ở bốn miền Bắc, Trung, Nam và miền núi phía Bắc, đã cho thấy thực trạng mức độ

nhận thức của sinh viên đại học sư phạm còn rất hạn chế, không đồng đều. Có sự chênh lệch

mức độ nhận thức của sinh viên đại học sư phạm theo giới tính, năm học, học lực, ngành

học, khu vực về 7 nội dung cốt lõi của SKSS: 1. Khái niệm SKSS, đối tượng SKSS, nội

dung SKSS; 2. Giới tính; 3. Tình ạn, tình yêu, hôn nhân; 4. Tình dục an toàn; 5. Mang thai,

nạo phá thai; 6. Biện pháp tránh thai; 7. Bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS. Đồng thời cũng qua

nghiên cứu đó, tác giả cũng đề xuất các biện pháp tác động sư phạm nhằm phát triển nhận

thức của sinh viên đại học sư phạm về SKSS.[34,tr.40-58]

- Với công trình nghiên cứu về “Thực nghiệm nâng cao nhận thức của sinh viên sư

phạm về SKSS” vào năm 2005 cũng của tác giả Trần Thị Minh Ngọc tiến hành ở 358 SV

sư phạm Hà Nội, thực nghiệm với 3 nội dung cơ bản: tình dục an toàn, các biện pháp tránh

thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục bằng biện pháp tác động sư phạm thực hiện

qua 2 hình thức: tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ theo từng chủ đề về SKSS; tổ chức thi tìm hiểu

SKSS thông qua trò chơi “hái hoa dân chủ” có giải bài tập tình huống. Qua kết quả thực

nghiệm đã cho thấy nhận thức của sinh viên sư phạm được nâng lên nhờ các biện pháp tác

động sư phạm nhưng mức độ thay đổi nhận thức về các nội dung SKSS là không đồng đều,

phụ thuộc nhất định vào các tác động sư phạm [36,tr.37-39]

- Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nhận thức SKSS của sinh viên sư

phạm đã phản ánh thực trạng mức độ nhận thức của SV sư phạm về việc biết, hiểu, vận

dụng liên quan đến các vấn đề cốt lõi của SKSS, các biện pháp thực nghiệm nhằm nâng cao

nhận thức của sinh viên sư phạm về các chủ đề SKSS có liên quan nhất là các vấn đề tương

đối nhạy cảm như tình dục an toàn, các biện pháp tránh thai, các bệnh LTQĐTD.

Với đề tài “Nhận thức về SKSS của sinh viên trường đại học Tiền Giang”, chúng

tôi mong muốn qua việc nghiên cứu nắm bắt được thực trạng nhận thức về SKSS của sinh

viên đại học Tiền Giang ở các nội dung cơ bản về SKSS, đồng thời qua đó so sánh nhận

thức của SV ở 2 khối ngành lớn: ngành sư phạm (SP), ngành ngoài sư phạm vế vấn đề trên

nhằm xem xét sự khác biệt giữa SV sư phạm và SV ngành ngoài SP (NSP). Từ đó đề xuất

những giải pháp tác động nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về SKSS.

1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.1. Khái niệm về tuổi thanh niên sinh viên

Việc phân đoạn, phân kỳ quá trình phát triển của con người phác họa cho

chúng ta thấy rõ những nét đặc trưng cơ bản cho từng lứa tuổi. Trong mỗi giai đoạn phát

triển, các nét đặc trưng này nảy sinh trên cơ sở kết hợp các điều kiện khách quan và chủ

quan.

Quá trình phát triển này là quá trình liên tục. Mỗi giai đoạn phát triển vừa

mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển. Tuy nhiên việc phân đoạn, phân kỳ quá trình

phát triển của con người, trong đó có lứa tuổi thanh niên SV chỉ có ý nghĩa tương đối.

Hiện nay tồn tại nhiều cách phân đoạn, phân kỳ quá trình phát triển của con

người tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu: xuất phát từ đặc điểm phát triển sinh lý, đặc điểm

phát triển tâm lý hay đi từ góc độ xã hội học dựa vào các dạng hoạt động xã hội...Nếu so

sánh sự khác biệt giữa ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ khoa học thì nội dung các khái

niệm thể hiện giai đoạn phát triển lại càng khác xa nhau.

Riêng trong tâm lý học, nếu loại trừ sự khác biệt trong quan điểm phân đoạn,

phân kỳ lứa tuổi do tính liên tục của quá trình phát triển tạo ra, nhìn chung có thể chấp nhận

xác định lứa tuổi thanh niên trong đó có thanh niên SV là từ 15 đến 24 tuổi. Tuy nhiên, cũng

cần nhận thấy rằng các ngưỡng tuổi trên và ngưỡng tuổi dưới có thể dịch chuyển chút ít (độ

1-2 tuổi) tuỳ thuộc vào các đặc điểm phát triển lịch sử xã hội, đặc điểm giới và cả đặc điểm

phát triển cá nhân.

Chính vì vậy, việc xem xét và đưa ra các quan niệm, định nghĩa về lứa tuổi

thanh niên SV nhìn chung là chưa thống nhất, còn nhiều vấn đề tranh cãi.

- Theo Từ điển Giáo dục học của nhà xuất bản Từ điển Bách khoa: “Sinh viên là

người học của một cở sở giáo dục cao đẳng, đại học” [18,tr.343]. Theo cách hiểu này, có

thể phân loại sinh viên theo nhiều phạm trù khác nhau. Thí dụ sinh viên tập trung, sinh viên

chính quy, sinh viên không tập trung, sinh viên tại chức, sinh viên tự do,....Hơn nữa, do nhu

cầu thống kê, người ta có thể phân biệt sinh viên thông thường và sinh viên thuộc hệ thống

giáo dục không chính quy (giáo dục thường xuyên) và có một hệ số quy đổi từ sinh viên

không chính quy sang sinh viên chính quy.

- Về độ tuổi theo Điều 1, chương I, Luật thanh niên 2005, thanh niên trong đó

có cả thanh niên sinh viên là “công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”.

- Quan điểm cho rằng tuổi thanh niên sinh viên thuộc giai đoạn tuổi thanh niên

là phù hợp xét theo nhiều mặt. Theo cách hiểu đó, tuổi thanh niên là “giai đoạn phát triển

bắt đầu từ sự phát dục và kết thúc vào lúc bước vào tuổi trưởng thành” [17,tr.61]. Tuy nhiên

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!