Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu tác dụng của chế phẩm HPmax trong điều tri loét hành tá tràng có Helicobacter pylori
PREMIUM
Số trang
341
Kích thước
2.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
904

Nghiên cứu tác dụng của chế phẩm HPmax trong điều tri loét hành tá tràng có Helicobacter pylori

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐH Y Hà Nội

Phạm Bá Tuyến

Nghiên cứu tác dụng của chế phẩm HPmax

trong điều tri loét hành tá tràngcó

Helicobacter pylori

Chuyên ngành: Y học cổ truyền Mã số: 62720201

Nơi đào tạo: Trường Đại học Y Hà Nội

2014

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Loét dạ dày, hành tá tràng là một bệnh khá phổ biến trong cộng đồng ở

Việt Nam cũng như trên thế giới.Theo thống kê tỷ lệ mắc bệnh loét dạ dày,

hành tá tràng chiếm khoảng 10% dân số ở nhiều quốc gia. Ở Việt Nam con số

này chiếm khoảng 6-7% [1], [2], [3]. Đặc điểm chính của bệnh là một bệnh mạn

tính, diễn biến có chu kỳ, xu hướng hay tái phát và dễ gây biến chứng nguy hiểm

như chảy máu hay thủng, ung thư dạ dày…Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, thường kéo

dài khiến người bệnh khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và công

việc, làm giảm sút sức lao động của toàn xã hội [4].

Về cơ chế bệnh sinh của bệnh loét dạ dày, hành tá tràng được cho là mất

cân bằng giữa yếu tố gây loét và yếu tố bảo vệ chống loét dạ dày [1], [2], [5], [6],

[7]. Do vậy nguyên tắc trong điều trị nội khoa là nhằm làm giảm yếu tố gây

loét và tăng cường yếu tố bảo vệ.

Từ năm 1983 đến nay, người ta đã xác nhận sự hiện diện của vi khuẩn

Helicobacter pylori (HP) trong bệnh viêm loét dạ dày, hành tá tràng và rất

nhanh chóng nhiều nghiên cứu đã chứng minh HP là thủ phạm chính gây loét

dạ dày, hành tá tràng [5], [8],[9],[10]. Sự phát hiện vi khuẩn HP đã mở ra một

phương thức điều trị mới có hiệu quả hơn. Đó chính là làm sạch HP - một

trong những mục tiêu quan trọng trong điều trị bệnh. Để diệt HP, y học hiện

đại thường được sử dụng 2 loại kháng sinh kết hợp với thuốc khác nhằm đem

lại hiệu quả cao trong điều trị. Tuy nhiên sau một thời gian điều trị hiện tượng

kháng kháng sinh của HP ngày càng tăng trên tất cả các loại kháng sinh đang sử

dụng trong các phác đồ điều trị với những tỷ lệ khác nhau (59,8- 91,8% đối với

metronidazol, 30-38,5% đối với clarithromycin, 23,7% đối với amoxicilin, 9,2 -

31,1% đối với tetracyclin) [11], [12], [13]. Ngoài ra các thuốc điều trị kết hợp

khác còn có tác dụng không mong muốn và giá thành đắt. Do vậy việc tiếp tục

tìm kiếm ra các thuốc mới, đặc biệt là thuốc có nguồn gốc từ thảo dược có hiệu

quả, an toàn, giá thành rẻ vẫn là nhu cầu cần thiết, là hướng nghiên cứu đang

được các nhà khoa học rất quan tâm.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

2

Theo y học cổ truyền (YHCT) loét dạ dày, hành tá tràng thuộc phạm vi

chứng “Vị quản thống” [14],[15], [16], [17]. Nhiều bài thuốc, chế phẩm thuốc

YHCT đã được áp dụng điều trị và mang lại những kết quả khác nhau. Song

hầu hết các bài thuốc cổ truyền mới tập trung vào cải thiện các triệu chứng

lâm sàng điều trị viêm loét, còn tác dụng về diệt HP chưa đề cập đến nhiều.

Chè dây, lá Khôi, Dạ cẩm, Bồ công anh ….là những dược liệu được dùng rất

phổ biến trong dân gian theo kinh nghiệm và cho kết quả cải thiện tốt các

triệu chứng lâm sàng. Một số nghiên cứu độc lập từng loại thảo dược Chè

dây, Dạ cẩm, lá Khôi đã được tiến hành trên mô hình thực nghiệm và lâm

sàng. Kết quả đều cho thấy các vị thuốc này không độc, có tác dụng chống viêm

giảm đau, giảm acid dịch vị và chống loét với những tỷ lệ khác nhau. Trong đó

đặc biệt tác dụng diệt HP của Chè dây đã được minh chứng rõ ràng trên thực

nghiệm và lâm sàng trong một số nghiên cứu gần đây. Với mong muốn tăng

cường tác dụng điều trị viêm loét dạ dày, hành tá tràng và khả năng diệt HP của

các dược liệu thuốc nam nêu trên, các nhà khoa học trường Đại học Dược Hà

Nội đã nghiên cứu một chế phẩm mới với sự kết hợp cả 3 dược liệu Chè dây,

Dạ cẩm, lá Khôi và đặt tên là HPmax. Chế phẩm được sản xuất dạng viên

nang cứng. Tuy nhiên, sự phối ngũ 3 vị dược lỉệu trong chế phẩm HPmax này

liệu có đem lại kết quả như mong muốn và có bảo đảm tính an toàn cao trong

điều trị hay không? Để trả lời câu hỏi này đề tài “Nghiên cứu tác dụng của chế

phẩm HPmax trong điều trị loét hành tá tràng có Helicobacter pylori” được

tiến hành với các mục tiêu:

1. Nghiên cứu độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của chế phẩm HPmax.

2. Nghiên cứu tác dụng diệt HP, tác dụng chống loét tá tràng và tác dụng

chống viêm, giảm đau, trung hòa acid của HPmax trên thực nghiệm.

3. Đánh giá tác dụng của HPmax trong điều trị bệnh nhân loét hành tá tràng

HP dương tính theo y học hiện đại và y học cổ truyền.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. QUAN NIỆM Y HỌC HIỆN ĐẠI VỀ LOÉT DẠ DÀY , HÀNH TÁ TRÀNG

1.1.1. Sơ lược về giải phẫu sinh lý, cấu trúc mô học và tế bào học dạ dày,

tá tràng

1.1.1.1. Đặc điểm về giải phẫu, sinh lý, cấu trúc mô học và tế bào học của tá tràng

 Đặc điểm về giải phẫu, sinh lý

Tá tràng là một đoạn ngắn của ống tiêu hoá, là khúc đầu của ruột non.

Như tên gọi của nó, tá tràng dài khoảng 12 đốt ngón tay (25cm), và là khúc

ngắn nhất, rộng nhất và cố định nhất của ruột non. Đường kính tùy khúc đo

được từ 15 - 17mm. Tá tràng nằm sát thành bụng sau, trước cột sống, các

mạch máu lớn và thận phải, một phần ở trên mạc treo đại tràng ngang một

phần ở dưới, toàn bộ nằm trên mức rốn. Tá tràng có hình giống chữ C, ôm lấy

đầu tụy và có thể chia làm 4 phần hay 4 khúc: phần trên hay khúc I tá tràng,

phần xuống hay khúc II tá tràng, phần ngang hay khúc III tá tràng, phần lên

hay khúc IV tá tràng, đoạn mở đầu của nó nằm ngay sau môn vị với nhiều lớp

cơ vòng đóng mở theo phản xạ có hay không có thức ăn ở dạ dày.

Phần trên hay khúc I tá tràng có độ dài khoảng 5 cm, hơi chếch lên trên

ra sau và sang phải, ngang mức đốt sống thắt lưng I. 2/3 đầu di động cùng

môn vị và phình to thành bóng tá tràng hay còn gọi là “Hành tá tràng”.

Dạ dày và tá tràng đều nằm ở vùng thượng vị, do đặc điểm giải phẫu này

nên khi dạ dày - tá tràng bị loét thì có triệu chứng lâm sàng chính là đau vùng

thượng vị. Hệ thống tuần hoàn mao mạch của tá tràng dày đặc và nằm rất

nông, ngay dưới lớp tế bào biểu mô, do đó khi viêm loét tá tràng dễ có biến

chứng chảy máu.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

4

Hệ thống thần kinh ở tá tràng cũng rất dày đặc và tập trung. Đó là các

phân nhánh của dây thần kinh X, chúng được tập trung phân bố dọc theo bờ

cong nhỏ rồi xuống tá tràng. Hệ thần kinh này rất quan trọng vì nó chỉ huy và

điều khiển hoạt động như cảm giác, co bóp vận động và bài tiết của dạ dày.

Hệ thần kinh này bị rối loạn sẽ dẫn tới tình trạng bệnh lý như cường thần kinh

thực vật làm tăng bài tiết HCl - yếu tố chính gây viêm loét dạ dày - tá tràng

[18], [19], [20], [21], [22].

 Cấu trúc mô học và tế bào học tá tràng

Đặc điểm mô học của tá tràng là lớp dưới niêm mạc có khá nhiều những

sợi cơ. Biểu mô niêm mạc tá tràng có đặc điểm là biểu mô trụ trơn, trong đó

có 3 loại tế bào, bao gồm:

Các tế bào hấp thu

Các tế bào hấp thu chiếm tỷ lệ nhiều nhất. Mặt ngọn của tế bào này có

rất nhiều vi nhung mao dài, song song với nhau và rất gần nhau, dưới kính

hiển vi điện tử thấy mật độ của chúng là dày đặc.

Tế bào hình dài

Các tế bào hình dài nằm xen giữa các tế bào hấp thu, chiếm tỷ lệ ít hơn.

Trên mặt tế bào này chỉ có một số vi nhung mao ngắn, thưa thớt, nhưng phần

cực trên của chúng phình ra chứa các giọt chất nhày, phần lớn các hạt nhày là

thuần nhất trong đó thành phần chính là bicarbonat.

Tế bào nội tiết

Tế bào nội tiết chiếm một tỷ lệ rất thấp, cực ngọn hẹp, trên mặt tự do của

chúng rất ít vi nhung mao. Đặc điểm nổi bật của loại tế bào này là các hạt chế tiết

thuần nhất, sẫm màu, có hình dáng và kích thước đa dạng, to nhỏ khác nhau.

Như vậy ở tá tràng không có hiện diện của tế bào chế tiết acid mà chỉ có

các tế bào bài tiết chất nhày, bicarbonat là những yếu tố bảo vệ chống loét.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

5

Tuy nhiên, tại đây chịu ảnh hưởng của acid clohydric từ dịch vị đổ xuống, ảnh

hưởng của dịch mật, dịch tuỵ trong đó có acid mật và muối mật; các tế bào

nội tiết của tá tràng cũng bài tiết ra entero-gastrin, chất này vào máu quay lại

dạ dày kích thích các tế bào thành sản xuất ra HCl [18], [23], [24], [25], [26].

Từ những đặc điểm nêu trên, cho thấy bệnh loét tá tràng phụ thuộc rất

nhiều vào độ pH của dịch vị ở dạ dày đổ xuống tá tràng.

1.1.1.2. Đặc điểm về giải phẫu, sinh lý, cấu trúc mô học và tế bào học của dạ dày

 Đặc điểm về giải phẫu

Dạ dày là đoạn phình to nhất của ống tiêu hóa nằm giữa thực quản và tá

tràng, nó nằm trong khoang dưới hoành trái, trên mạc treo đại tràng ngang.

+ Cấu tạo và hình thể bên trong dạ dày

Thành dạ dày được chia thành 4 lớp: Lớp thanh mạc, lớp cơ, lớp dưới

niêm mạc, lớp niêm mạc [18], [19], [21], [22].

 Cấu tạo mô học và tế bào học của niêm mạc dạ dày

Dịch vị được các tuyến của dạ dày tiết ra phủ mặt trong dạ dày là lớp

chất nhày dày tới 1mm, dưới đó là lớp niêm mạc cũng dày 1mm, với lớp tế

bào biểu mô lợp. Dưới biểu mô là các tế bào tiết của dạ dày.

Các tế bào tiết có thể tập hợp để tạo ra cấu trúc tuyến (như ở thân vị) cũng có

thể nằm rải rác, dày đặc hoặc thưa thớt (như ở hang vị và thân vị) [23], [24], [25].

Tuyến ở thân vị:

Mỗi ống tuyến của thân vị có các loại tế bào chủ yếu sau:

- Tế bào nhày (mucous cell) tiết chất nhày có tính kiềm. Có tác dụng bôi

trơn, che phủ bảo vệ niêm mạc khỏi tác động của acid.

- Tế bào thành hay tế bào viền, tế bào sinh acid (parietal cell) tiết ra HCl

và yếu tố nội. Vai trò của acid là diệt khuẩn, hoạt hoá pepsinogen tạo pH tối

ưu (1,8 - 3,5) cho pepsin hoạt động.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

6

- Tế bào chính (chief cell) tiết pepsinogen - tiền thân của pepsin có tác

dụng tiêu hoá protein. Do vậy tế bào này có tên là “tế bào tiêu”.

- Tế bào gốc (stem cell) có khả năng phân bào mạnh, biệt hoá tạo thành

các loại tế bào tuyến.

- Tế bào ECL (Entero Chromaffin Like) tiết histamin. Histamin có tác

dụng kích thích tế bào thành tiết ra acid và làm co cơ trơn dạ dày.

- Tế bào D (delta cell), có vai trò là kìm hãm tiết acid khi nồng độ acid

trong dạ dày đủ hay quá cao.

Tuyến ở hang vị

Niêm mạc vùng hang vị có diện tích hẹp hơn thân vị, nhưng về vi thể có

nếp gấp nhỏ hơn và sâu hơn so với ở thân vị làm tăng diện tích bề mặt lên

hàng chục lần.

- Tế bào nhày (mucous cell): Phủ bề mặt niêm mạc và tiết ra chất nhày cũng

như ở vùng thân vị (ngoại tiết).

Các tế bào khác vùi dưới niêm mạc hoặc chỉ tiếp xúc tối thiểu với

khoang dạ dày, gồm có:

- Tế bào G (G cell) tiết gastrin vào máu. Tác dụng của gastrin là kích

thích tế bào thành tiết ra acid.

- Tế bào D (delta cell): Như nêu ở trên là tế bào kìm hãm tiết acid khi

nồng độ acid trong dạ dày đủ hay quá cao.

-Tế bào ruột bắt màu Ec: là té bào bài tiết serotonin.

- Tế bào A: là tế bào bài tiết glucagon.

 Sinh lý dạ dày:

Dạ dày gồm có 3 chức năng sinh lý như sau: Chức năng vận động, chức

năng tiêu hóa và chức năng bài tiết. Trung bình một ngày dạ dày bài tiết: 1-1,5 lít

dịch vị, enzym (pepsinogen và pepsin), glycoprotein, yếu tố nội và acid. Sự

bài tiết dịch vị cũng chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố: Tác động của thần kinh phế

vị và yếu tố thể dịch.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

7

Sự bài tiết dịch vị qua 3 giai đoạn:

- Giai đoạn vỏ não: Vai trò thần kinh thể dịch.

- Giai đoạn dạ dày: Dạ dày bị kích thích bởi thức ăn, bởi sự căng vùng

thân và hang vị. Hoặc dạ dày bị ức chế, H+ kìm hãm sự giải phóng gastrin.

- Giai đoạn ruột: Giãn tá tràng sẽ gây tăng bài tiết [1], [23], [25].

1.1.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh loét dạ dày, hành tá tràng

Loét dạ dày, hành tá tràng là một bệnh khá phổ biến có ở mọi nước trên

thế giới. Bệnh có đặc điểm mạn tính hay tái phát.

Loét dạ dày, hành tá tràng được định nghĩa là “thương tổn của lớp niêm

mạc, xuyên qua lớp cơ niêm xuống đến lớp cơ” [2], [27].

Nhiều giả thuyết về nguyên nhân, bệnh sinh của bệnh loét dạ dày, hành tá

tràng đã được đề cập đến, như: Thuyết về rối loạn thần kinh thực vật của G.

Berrgaman (1913); thuyết vỏ não nội tạng của K.M. Bukov và I.T. Kursin (1952);

thuyết "stress" của H. Selye (1953); thuyết acid, không có acid thì không loét của

Schwartz năm 1910, “loét là hậu quả vượt trội quá mức của các tác nhân ăn mòn

trong dịch vị so với khả năng bảo vệ của niêm mạc” [1], [2], [28]. Các quan sát từ

thực nghiệm, lâm sàng và điều trị, không thể phủ nhận ý kiến này. Từ đó cho

tới những năm 1980, thuyết này đã chi phối các phương pháp điều trị nội

khoa [4]. Trong các thập kỷ của thế kỷ XX người ta đề cập nhiều đến vai trò

của yếu tố thần kinh và yếu tố thể dịch. Đến năm 1983 các nhà khoa học đã

phát hiện trong dạ dày, tá tràng có loại trực khuẩn hình cong tên là

Helicobacter pylori và đã chứng minh nó là một trong những nguyên nhân

chính gây loét dạ dày, hành tá tràng. Các thuyết này đều đưa ra để giải thích

cơ chế hình thành ổ loét, nhưng không có một cơ chế duy nhất cho bệnh loét.

Quan điểm hiện nay cho rằng có thể xem bệnh dạ dày, hành tá tràng có nhiều

cơ chế và nhiều nguyên nhân gây ra cần phải được tiếp tục nghiên cứu thêm.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

8

- Vai trò của acid clohydric (HCl) - pepsin:

Đối với tiêu hóa thì acid clohydric rất cần thiết cho tiêu hóa nhưng cũng

là tác nhân gây bệnh loét dạ dày tá tràng. Pepsin có chức năng tiêu protein

thức ăn, nhưng nó cũng có mặt trái là ăn mòn lớp màng nhày phủ trên bề mặt

niêm mạc. Cơ sở của việc tạo ra ổ loét ở niêm mạc dạ dày, hành tá tràng là

quá trình phá huỷ mô do dịch dạ dày có độ acid cao và hoạt tính phân giải

protein khi dinh dưỡng tại chỗ bị rối loạn, chính vì vậy trong một thời gian

dài nhiều tác giả cho rằng “Không có acid thì không loét”. Tuy nhiên, không

phải cứ tăng tiết HCl là có loét, bởi vì có khoảng 1/3 bệnh nhân bị loét dạ dày,

hành tá tràng, nhưng không thấy tăng HCl [1], [2], [22], [23], [24].

- Vai trò của Helicobacter pylori

Năm 1983 Marshall và Warren mới nuôi cấy thành công và chứng minh

vai trò gây bệnh của vi khuẩn sống trong niêm mạc dạ dày được gọi là

Helicobacter pylori. Helicobacter pylori (HP) là trực khuẩn hình cong có kích

thước từ 0,4 x 3 micron, có từ 4-6 roi mảnh ở 1 đầu. Nhờ có cấu trúc xoắn và

các roi này, Helicobacter pylori có khả năng di chuyển luồn sâu xuống dưới lớp

nhầy của bề mặt niêm mạc dạ dày. Helicobacter pylori tiết ra các enzym:

Catalase, oxydase, urease, phosphatase - kiềm, glutamin transferase, lipase,

protease…Trong các enzym nói trên đáng chú ý nhất là urease. Trong dạ dày,

Helicobacter pylori sản sinh trong môi trường acid một lượng urease rất lớn,

chỉ có Helicobacter pylori sống được trong môi trường acid mạnh của dạ dày

(pH = 1-2). Sự hiện diện của enzym này đồng nghĩa với sự có mặt của

elicobacter pylori [29], [30], [31] .

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

9

HelicobacterPylori hình cầu HelicobacterPylori hình cong

Hình 1.1. Hình ảnh của Helicobacter Pylori (HE x 1000) [5]

Enzym urease phân huỷ urea trong dạ dày thành amoniac và acid

cacbonic, giúp cho Helicobacter pylori xâm nhập vào niêm mạc dạ dày và có

thể bảo vệ Helicobacter pylori khỏi bị ảnh hưởng của acid dịch vị [32], [33].

Các enzym tiêu huỷ protein (catalase, protease, phospholiphase…) cũng có

vai trò trong bệnh sinh [34], đặc biệt protein gọi là “độc tố tế bào gây hốc”

(vacuolating cytotoxin, viết tắt là VaC) gây ra các không bào trong tế bào biểu

mô niêm mạc. Gen liên quan với chất protein độc này được gọi là VaC-A. Một

protein khác là sản phẩm của “gen A liên kết với độc tố tế bào” (Cytotoxin

associated gen A, viết tắt Cag-A) cũng có vai trò lớn trong bệnh sinh. Tất cả

các yếu tố trên gây tổn thương niêm mạc qua phản ứng viêm tại chỗ với sự lôi

kéo bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đa nhân trung tính, đại thực bào và lympho

bào [35], trong đó sự đáp ứng của lympho bào nhằm duy trì đáp ứng viêm tại

chỗ là quan trọng nhất. Bên cạnh quá trình viêm, đáp ứng của niêm mạc dạ

dày với những yếu tố có khả năng gây bệnh giải phóng ra các cytokin khác

nhau [36] như: Interleukin-I (IL-I, IL-6, IL-8, yếu tố hoại tử u (TNF-α).. cũng

góp phần tăng phản ứng viêm, làm cho quá trình viêm nhiễm nặng lên: tế bào

biểu mô phù nề, hoại tử bong tróc, tiếp đến là sự tác động của acid và pepsin

gây trợt rồi tạo thành ổ loét. Hiện nay, Helicobacter pylori được coi là

nguyên nhân quan trọng nhất gây viêm dạ dày (VDD), loét dạ dày (LDD) và

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

10

ung thư dạ dày (UTDD) [37]. Bằng chứng là tỷ lệ nhiễm Helicobacter pylori

rất cao, khoảng 90% - 100% trong loét hành tá tràng (LHTT) [38], [39].

khoảng 70% - 90% trong LDD [40], 80% - 90% trong VDD và 60% - 70%

trong UTDD [41], [42].

Mối liên quan giữa nhiễm Helicobacter pylori và loét hành tá tràng dựa

trên cơ sở của viêm dạ dày. Viêm hang vị do Helicobacter pylori có vai trò

quan trọng trong loét hành tá tràng [43]. Theo Malfertheiner [44], bệnh nhân

viêm dạ dày mạn tính hoạt động do nhiễm Helicobacter pylori có nguy cơ

loét tá tràng cao gấp 15 lần so với người không bị nhiễm và cao gấp 50 lần

trong trường hợp nhiễm Helicobacter pylori ở tá tràng. Helicobacter pylori

gây nên viêm hang vị, viêm dạ dày mạn tính hoạt động dẫn đến những thay

đổi trong chế tiết acid, hậu quả của sự lệch lạc do mất tính cân bằng hằng

định nội môi giữa somatostatin, gastrin và acid, tạo điều kiện thuận lợi gây

ra loét hành tá tràng [32], [39], [43]. Trong điều trị loét dạ dày, hành tá

tràng, nếu diệt được Helicobacter pylori thì tỷ lệ liền sẹo rất cao, thời gian

liền sẹo nhanh, ít tái phát và ngược lại [37], [39], [45], [46].

Nguyên nhân mất cân bằng sinh lý của dạ dày tá tràng liên quan đến loét:

Bệnh loét dạ dày, hành tá tràng là kết quả của sự mất cân bằng giữa một

bên là hệ thống sinh loét acid-pepsin (yếu tố gây loét) và một bên là hệ thống

bảo vệ niêm mạc (yếu tố bảo vệ) bao gồm: chất nhầy, bicarbonat, tế bào biểu

mô và prostaglandins [1], [2], [47], [48].

Ở bệnh nhân loét hành tá tràng có sự gia tăng tuyệt đối hay tương đối

chế tiết acid ở dạ dày, ngược lại trong loét dạ dày sự suy yếu sức đề kháng

của niêm mạc là quan trọng [47].

Trong hệ thống sinh loét dạ dày, hành tá tràng, acid-pepsin có vai trò

quan trọng, ngoài việc sử dụng NSAIDs và hoặc aspirin [49], hội chứng

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

11

Zollinger-Ellison, các yếu tố nguy cơ khác như rượu, thuốc lá, di truyền…thì

việc phát hiện ra Helicobacter pylori là cuộc cách mạng đã làm thay đổi sâu

sắc sự hiểu biết quan niệm truyền thống về bệnh sinh của loét. Quan điểm

ngày nay, người ta cho rằng acid và Helicobacter pylori là hai đồng yếu tố

quan trọng trong sinh bệnh học loét dạ dày, hành tá tràng, trong đó việc

nhiễm Helicobacter pylori là nguyên nhân chính dẫn đến việc làm lệch lạc

sinh lý dạ dày trong mối cân bằng hằng định nội môi giữa somatostatin,

gastrin và acid [43].

* Yếu tố gây loét:

- Acid clohydric và pepsin dịch vị.

- Vai trò gây bệnh của Helicobacter pylori.

- Thuốc chống viêm không steroid và steroid.

- Vai trò của rượu, thuốc lá.

* Yếu tố bảo vệ

- Vai trò kháng acid của muối kiềm bicarbonat.

- Vai trò chất nhầy mucin để bảo vệ niêm mạc.

- Mạng lưới mao mạch của niêm mạc dạ dày.

- Sự toàn vẹn và tái tạo của tế bào biểu mô và bề mặt niêm mạc dạ dày tá tràng.

Sự phá vỡ cân bằng giữa 2 nhóm yếu tố xảy ra khi nhóm yếu tố gây loét

tăng cường hoạt động mà không củng cố đúng mức hệ thống bảo vệ, ngược

lại hệ thống bảo vệ suy kém nhưng yếu tố tấn công gây loét lại không giảm

tương ứng. Và hậu quả của sự phá vỡ cân bằng này đưa đến hình thành loét dạ

dày, hành tá tràng.

Tuy cơ chế gây ổ loét kể trên đã được nhìn nhận một cách toàn diện hơn

nhưng chưa giải thích được tại sao ổ loét có tính chất khu trú và mang tính

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

12

chất mạn tính có từng đợt tiến triển. Bên cạnh đó người ta nhận thấy có những

yếu tố thúc đẩy bệnh loét tiến triển như sau:

- Quá căng thẳng về thần kinh, tâm lý, chấn thương về tình cảm, tinh thần.

- Rối loạn chức năng nội tiết.

- Rối loạn nhịp điệu và tính chất thức ăn: bữa ăn không đúng giờ, ăn

nhiều vị chua cay, lạm dụng rượu, thuốc lá.

- Những đặc điểm về thể trạng, di truyền, trong đó có sự gia tăng số

lượng tế bào bìa mang tính chất gia đình.

- Ảnh hưởng của môi trường sống: độ ẩm, nhiệt độ, thay đổi thời tiết.

- Bệnh lý của một số cơ quan khác kèm theo: xơ gan, u tụy (hội chứng

Zollinger Ellison).

- Một số bệnh nội tiết: Basedow, cường vỏ thượng thận.

Tất cả các yếu tố trên thúc đẩy sự tiến triển của bệnh đã giải thích được

một phần bệnh loét dạ dày tá tràng là bệnh mạn tính có từng đợt tiến triển.

1.1.3. Phương pháp điều trị loét dạ dày, hành tá tràng (điều trị nội khoa)

1.1.3.1. Nguyên tắc điều trị

- Loại trừ các yếu tố gây bệnh như stress, vi khuẩn Helicobacter pylori,

tăng tiết acid clohydric…

- Bình thường hóa chức năng dạ dày.

- Tăng cường các quá trình tái tạo niêm mạc, loại trừ các bệnh kèm theo

- Điều chỉnh lối sống sinh hoạt và chế độ dinh dưỡng [1], [3].

(Xem sơ đồ điều trị loét dạ dày – hành tá tràng theo sinh lý - bệnh học.

Phụ lục1).

1.1.3.2. Mục đích điều trị

+ Giảm yếu tố gây loét

- Dùng thuốc ức chế bài tiết acid clohydric và pepsin.

- Dùng thuốc trung hòa acid clohydric đã được bài tiết vào dạ dày, tá tràng.

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

13

+ Tăng cường yếu tố bảo vệ niêm mạc

- Dùng các thuốc bao phủ niêm mạc và băng bó ổ loét.

- Dùng thuốc kích thích sản xuất chất nhầy (mucin) hoặc các phương

pháp kích thích sự tái tạo niêm mạc bằng Laser cường độ thấp - Heli - Neon.

+ Diệt trừ Helicobacter pylori

- Dùng các kháng sinh và các chất diệt khuẩn như bismuth [1], [2],

[3], [50], [51].

1.1.3.3. Các loại thuốc và phác đồ điều trị

- Thuốc tác động lên thần kinh trung ương và thần kinh thực vật.

Các thuốc loại này có tác dụng làm giảm co thắt, giảm đau.

* Cắt kích thích dẫn truyền từ vỏ não:

- Sulpirid (Dogmatil) 50-100mg/ngày, trong 10-15 ngày.

- Diazepam (5mg): 1-2 viên/ ngày.

* Cắt dẫn truyền kích thích qua sinap thần kinh phế vị:

- Atropin (0,25mg), có thể dùng 0,25mg - 1,5mg/24 giờ.

- Pirenzepin (gastrozepin):100-150mg/ngày. Liều duy trì: 50mg/ngày. Dùng

1 đợt 10 ngày [1], [2], [3].

- Thuốc kháng acid (Antacid).

Các thuốc loại này có khả năng trung hòa acid clohydric đã được bài tiết

vào dạ dày. Hay dùng là các muối và hydroxyd của nhôm và magnesi với các

biệt dược như alusi, phosphalugel, almagel, maalox, gastropulgit..

Các thuốc loại này có tác dụng nhanh nhưng ngắn, vì vậy hiện nay thường

được dùng để cắt các cơn đau và giảm nhanh các triệu chứng [1], [2], [3], [50].

- Các chất chống bài tiết (antisecretory agents)

+ Thuốc ức chế thụ thể H2 của Histamin ở tế bào bìa:

Bao gồm các thuốc: cimetidin (Thế hệ 1), ranitidin (Thế hệ 2), famotidin

(Thế hệ 3), nizatidin (Thế hệ 4). Cơ chế chủ yếu của các thuốc này là cản trở

sự gắn của histamin lên thụ thể H2, do đó kìm hãm sự tạo HCl. Các thuốc thế

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

14

hệ sau ưu việt hơn thế hệ trước vì: Liều lượng dùng ít hơn,thời gian lành ổ

loét nhanh hơn và sau thời gian ngừng thuốc, tỷ lệ tái phát ít hơn [1], [2], [52],

[53].

+ Thuốc ức chế bơm proton

+

+

K

H ATPase của tế bào bìa (PPI: Proton

pump inhibitors):

Cơ chế tác dụng là do ức chế hoạt động của bơm

+

+

K

H ATPase, làm cho tế bào

viền không còn khả năng tiết HCl. Các thuốc hiện dùng đều thuộc dẫn chất

benzimidazol, có khả năng ức chế bài tiết dịch vị tự nhiên và cả do bị kích thích,

PPI có tác dụng hiệp đồng với các thuốc kháng sinh và tự nó cũng có khả năng diệt

HP, bao gồm: Omeprazol, lansoprazol, pantoprazol, rabeprazol, esomeprazol [1],

[2], [52], [53], [54], [55], [56], [57].

- Các thuốc bảo vệ niêm mạc, băng bó ổ loét:

- Loại kích thích tạo và tiết chất nhầy như cam thảo (có trong thành phần của

Kavet), dimixen, teprenon (selbex), prostaglandin E1 misoprostol (cytotex…).

- Sucralfat: thành phần là Alumini sacharose sulfat, khi chất này gặp HCl

sẽ chuyển thành một lớp dính quánh gắn lên ổ loét [52], [58], [59] .

- Thuốc diệt khuẩn Helicobacter pylori

Vi khuẩn HP được coi là một trong hai yếu tố chính gây loét dạ dày, hành

tá tràng, là nguyên nhân chính gây tái phát bệnh, diệt HP sẽ giúp cho tỷ lệ liền

sẹo cao và giảm tỷ lệ tái phát. Các nhóm thuốc thường dùng là kháng sinh và

muối bismuth [1], [2], [3], [50]. Nhưng không phải cứ có sự hiện diện của

HP là dùng thuốc diệt nó, mà gần đây người ta cũng đưa ra chỉ định khi nào

thì cần phải diệt:

- Chỉ định chính điều trị diệt HP [12], [60]

+ Loét dạ dày, loét tá tràng

+ Viêm dạ dày mạn teo

+ Sau điều trị ung thư bằng cắt đoạn hoặc cắt bớt

TRIAL MODE − a valid license will remove this message. See the keywords property of this PDF for more information.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!