Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu đối chiếu phương thức biểu hiện thời gian trong tiếng Hàn và tiếng Việt
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGHIÊM THỊ THU HƢƠNG
NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN
THỜI GIAN TRONG TIẾNG HÀN VÀ TIẾNG VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
HÀ NỘI - năm 2014
NGHIÊM THỊ THU HƢƠNG CHUYÊN NGÀNH NGÔN NG
Ữ
H
ỌC
ỨNG D
ỤNG KHÓA 2009
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGHIÊM THỊ THU HƢƠNG
NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN
THỜI GIAN TRONG TIẾNG HÀN VÀ TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC ỨNG DỤNG
Mã số: 62 22 01 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS VŨ VĂN ĐẠI
HÀ NỘI-năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
thống kê, kết quả trong luận án là trung thực và chƣa từng công bố trong bất
kì công trình nào khác .
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NGHIÊM THỊ THU HƢƠNG
MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Lịch sử vấn đề
3.1 Phạm trù “thời” và “thể” trong các nghiên cứu ngôn ngữ học
3.2 Phạm trù “thời” và “thể” trong các nghiên cứu ứng dụng giảng dạy
tiếng Hàn
4. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu
5. Đối tƣợng, phạm vi và cứ liệu nghiên cứu
6. Đóng gớp của luận án
7. Cấu trúc của luận án
1
4
5
5
10
12
13
15
16
NỘI DUNG CHÍNH CỦA LUẬN ÁN
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1 Cơ sở lí luân chung về các phƣơng thức biểu hiện thời gian
trong ngôn ngữ
1.1.1 Nhận xét chung
1.1.2 Thời gian ngữ pháp
1.1.3 Vấn đề thời và thể trong tiếng Hàn và tiếng Việt
1.2 Các phạm trù ngữ pháp liên quan đến thời gian
1.2.1 Về phạm trù “thời”
1.2.2 Về phạm trù “thể”
1.3 Vấn đề thời gian ngữ pháp trong tiếng Hàn và tiếng Việt
1.3.1 Thời gian ngữ pháp trong tiếng Hàn
1.3.2 Thời gian ngữ pháp trong tiếng Việt
1.4 Tiểu kết chƣơng 1
18
18
18
20
22
27
27
29
31
31
34
35
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG THỨC BIỂU ĐẠT Ý NGHĨA THỜI GIAN
TRONG TIẾNG HÀN
2.1 Nhận xét chung
2.2 Hình thái tố chỉ thời gian trong tiếng Hàn
2.2.1 Hình thái tố ở biểu thức kết thúc
2.2.2 Hình thái tố ở biểu thức liên kết câu
2.2.3 Hình thái tố ở biểu thức định từ
2.3 Các hình thái tố chỉ thể
2.3.1 Vấn đề các hình thái tố chỉ thể
2.3.2 Thể hoàn thành
2.3.3 Thể tiếp diễn
2.3.4 Thể dự đoán
2.4 Tiểu kết chƣơng 2
37
37
42
42
60
68
73
73
75
76
78
78
CHƢƠNG 3: ĐỐI CHIẾU PHƢƠNG THỨC DIỄN ĐẠT Ý
NGHĨA THỜI GIAN TRONG TIẾNG HÀN VÀ TIẾNG VIỆT
3.1 Đặt vấn đề
3.2 Một số vấn đề về phƣơng thức biểu đạt thời gian trong tiếng Việt
3.2.1 “Đã”, “đang”, “sẽ” với phƣơng thức biểu đạt ý nghĩa thời gian
trong tiếng Việt
3.2.2 Về “đã”
3.2.3 Về “đang”
3.2.4 Về “sẽ”
3.2.5 Nhận xét
3.3 Đối chiếu phƣơng thức biểu thị thời gian trong tiếng Hàn và
tiếng Việt : Khảo sát trƣờng hợp
3.3.1 Sự khác biệt về đặc điểm loại hình giữa tiếng Hàn và tiếng
Việt liên quan đến khảo sát
3.3.2 Đối chiếu cách dịch thời quá khứ, hiện tại, tƣơng lai trong
tiếng Hàn sang tiếng Việt và ngƣợc lại
79
79
80
80
82
84
85
87
87
87
89
3.4 Một số kết quả đối chiếu
3.4.1 Ở thời quá khứ
3.4.2 Ở thời hiện tại
3.4.3 Ở thời tƣơng lai
3.5 Tiểu kết chƣơng 3
102
102
105
108
109
CHƢƠNG 4 : NHỮNG VẤN ĐỀ DẠY VÀ HỌC PHƢƠNG THỨC
BIỂU ĐẠT Ý NGHĨA THỜI GIAN TRONG TIẾNG HÀN CHO
SINH VIÊN VIỆT NAM
4.1 Giới hạn vấn đề khảo sát
4.2 Cơ sở lí thuyết của phân tích lỗi
4.3 Phân tích lỗi
4.3.1 Phân tích lỗi trên văn bản viết
4.3.2 Phân tích lỗi trên phiếu điều tra
4.4 Khái quát kết quả phân tích các nhóm lỗi
4.4.1 Nhóm lỗi do lƣợc bỏ hình thái tố thời gian
4.4.2 Nhóm lỗi do dùng thừa hình thái tố thời gian
4.4.3 Nhóm lỗi do dùng lẫn lộn các hình thái tố
4.4.4 Nhóm lỗi do đặc trƣng của tiếng Hàn
4.5 Đề xuất phƣơng pháp dạy và học phƣơng thức biểu thị thời
gian trong tiếng Hàn cho ngƣời Việt
4.5.1 Vấn đề nội dung giảng dạy
4.5.2 Vấn đề phƣơng pháp giảng dạy và đề xuất giáo án
4.6 Tiểu kết chƣơng 4
112
112
113
116
116
116
120
120
124
127
128
132
132
134
142
KẾT LUẬN CHUNG 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CÁC TỪ KHÓA CHÍNH
Biểu thức kết thúc câu
Biểu thức liên kết câu
Chỉ tố kết thúc câu
Chỉ tố liên kết câu
Hình thái tố
Thể
Thời
Tình thái
Thời tuyệt đối
Thời tƣơng đối
DANH SÁCH CÁC CHỈ TỐ TIẾNG HÀN CÓ PHIÊN ÂM
~었 / ʌt / ~었었 / ʌt ʌt / ~더 / tʌ /
~는 / nɯn / ~ ㄴ/ n / ~ ㄹ / l /
~ 겠 / ki ʌt / ~ㄹ 것 / l k ʌt /
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
HT: Hiện tại QK: Quá khứ TL: Tƣơng lai
ST: Sự tình STQK :Sự tình quá khứ
Ký hiệu * : Dùng để biểu thị câu đang xét là câu sai ngữ pháp.
Ký hiệu ##: Dùng để biểu thị ở vị trí đó đáng lẽ xuất hiện hình thái tố chỉ thời
nhƣng thực tế trong câu đang xét là không có.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Ý nghĩa thời tƣơng lai trong ~겠 và ~ ㄹ 것 Trang 55
Bảng 3.1 Kết hợp của các hƣ từ đã, đang, sẽ trong tiếng Việt Trang 82
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu: Chuyển từ “đã” tiếng Việt sang tiếng Hàn Trang 89
Biểu: Chuyển từ “đang” tiếng Việt sang tiếng Hàn Trang 92
Biểu: Chuyển từ “sẽ” tiếng Việt sang tiếng Hàn Trang 94
Biểu: Chuyển từ “sắp” tiếng Việt sang tiếng Hàn Trang 95
Biểu: Chuyển từ quá khứ tiếng Hàn sang “đã” tiếng Việt Trang 97
Biểu: Chuyển từ hiện tại tiếng Hàn sang “đang” tiếng Việt Trang 99
Biểu: Chuyển từ tƣơng lai tiếng Hàn sang “sẽ”, “sắp” tiếng Việt Trang 101
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
1) Cùng với không gian làm trục hoành, thời gian làm trục tung trên tọa độ
trong đời sống của con ngƣời mọi ngôn ngữ đều có các phạm trù không gian, thời
gian và những phƣơng tiện biểu hiện tƣơng ứng. Đó có thể là phƣơng tiện từ vựng
hoặc phƣơng tiện ngữ pháp. Có thể nói ngôn ngữ nào cũng sử dụng một lớp từ vựng
nhằm định vị không gian và thời gian trong các tình huống giao tiếp. Đây là một
điểm chung của các ngôn ngữ. Yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa chúng là phƣơng
thức sử dụng các phƣơng tiện ngôn ngữ sẵn có trong chức năng biểu thị không gian,
và thời gian. Thực vậy có ngôn ngữ ƣu tiên các phƣơng tiện từ vựng, ít sử dụng các
yếu tố khác. Ngƣợc lại có ngôn ngữ khai thác tối đa các hình thái động từ, hoặc các
hình thái tố kết hợp với vị từ để diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp liên quan đến thời
gian một cách rất tinh tế. Hiện tƣợng này bắt nguồn từ sự khác biệt trong tri nhận về
thời gian, từ đặc điểm tƣ duy và từ văn hoá giao tiếp của các dân tộc. Tiếng Hàn và
tiếng Việt là ví dụ điển hình minh hoạ cho nhận định trên.
Thực vậy điểm chung của hai ngôn ngữ này là đều áp dụng phƣơng thức biểu
thị thời gian theo sự phân chia truyền thống là quá khứ, hiện tại và tƣơng lai. Nhƣng
một trong những sự khác biệt nổi trội giữa chúng bắt nguồn từ đặc điểm loại hình
của chúng. Tiếng Hàn thuộc loại hình ngôn ngữ chắp dính tiêu biểu, trong khi đó
tiếng Việt là ví dụ điển hình của loại hình ngôn ngữ đơn lập. Trong tiếng Hàn, sự
hiện diện của các hình thái tố biểu hiện thời và thể, nhƣ ~ (으)ㄴ/ ~ 는/ ~ (으)ㄹ/
~었/~겠 /~ㄹ 것 là bắt buộc trong mọi trƣờng hợp. Đây là một quy tắc ngữ pháp chặt
chẽ, áp dụng đối với mọi trƣờng hợp sử dụng. Ngƣợc lại trong tiếng Việt các hƣ từ
biểu hiện thời gian nhƣ đã, đang, sẽ đƣợc sử dụng một cách linh hoạt, tuỳ thuộc.
Nói cách khác, các từ này có thể xuất hiện, hoặc vắng mặt trong phát ngôn. Sự tuỳ
thuộc này do nhiều yếu tố chi phối mà chúng tôi sẽ phân tích sâu trong luận án. Đây
là điểm khác biệt rất đáng chú ý dẫn đến nhiều hệ quả quan trọng đối với việc dạy
2
học tiếng Hàn nhƣ một ngoại ngữ và dịch thuật. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa
có nghiên cứu đối chiếu nào mang tính hệ thống, nêu bật sự khác biệt giữa hai ngôn
ngữ Hàn-Việt trong cách biểu thị thời gian. Rõ ràng với mục đích phục vụ cho
giảng dạy và dịch thuật, nghiên cứu phƣơng tiện biểu thị thời gian trong tiếng Hàn
và tiếng Việt là một nhiệm vụ cấp thiết.
2) Xét trên phƣơng diện đối chiếu ngôn ngữ Hàn-Việt nói chung và vấn đề
biểu hiện thời gian trong đề tài của chúng tôi nói riêng, có thể nhận thấy những
điểm sau.
Trên phƣơng diện ngôn ngữ học ứng dụng, để nâng cao chất lƣợng và hiệu
quả giảng dạy và học tập, các nhà giáo học pháp ngoại ngữ cần phải dựa vào kết
quả của các công trình đối chiếu ngôn ngữ nhằm dự báo những khó khăn của ngƣời
học ở những nội dung, những hiện tƣợng ngữ pháp có sự khác biệt rất lớn giữa các
ngôn ngữ, để từ đó xác định những chiến lƣợc sƣ phạm phù hợp, nhằm tạo thuận lợi
cho quá trình tiếp thu ngoại ngữ của ngƣời học nói chung và của sinh viên tiếng
Hàn nói riêng. Những công trình nghiên cứu ngôn ngữ đối chiếu hƣớng đến những
ứng dụng vào dạy và học ngoại ngữ nhƣ vậy là rất cần thiết.
3) Trƣớc xu hƣớng hợp tác quốc tế nói chung và giao lƣu giữa hai nƣớc Việt
Nam – Hàn Quốc nói riêng, nhu cầu học tập và nghiên cứu ngoại ngữ tiếng Hàn
đang tăngcao. Hơn bao giờ hết giảng viên và sinh viên cần đƣợc tham khảo những
công trình nghiên cứu mang giá trị ứng dụng trong học tập và nghiên cứu tiếng Hàn.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có 11 trƣờng Đại học tổ chức đào tạo, giảng dạy ngôn ngữ
và văn hóa Hàn Quốc, ở Hàn quốc cũng có 5 trƣờng đại học thành lập khoa tiếng
Việt và tổ chức giảng dạy ngành Việt ngữ học. Những năm đầu, hàng năm, cả nƣớc
chỉ có 100 sinh viên ngành tiếng Hàn đƣợc tuyển vào hệ đào tạo chính quy thì giờ
đây, số lƣợng sinh viên chính quy mỗi năm đã tăng lên đến gần 1.000 ngƣời. Sinh
viên ngành tiếng Hàn ở các trƣờng đào tạo chính quy khi tốt nghiệp ra trƣờng đều
tìm đƣợc việc làm theo đúng chuyên môn đƣợc đào tạo.
3
“Hàn Quốc” và “tiếng Hàn Quốc” đã trở thành những cụm từ quen thuộc với
ngƣời dân Việt Nam. Đầu tƣ của Hàn Quốc tại Việt Nam tiếp tục đƣợc mở rộng.
Theo số liệu thống kê của Cục xúc tiến thƣơng mại, hiện nay Hàn Quốc đang là
quốc gia dẫn đầu trong đầu về số lƣợng dự án đầu tƣ vào Việt Nam (với 3250 dự
án) và là quốc gia đứng thứ tƣ về tổng số vốn đầu tƣ. Việt Nam cũng là quốc gia
đứng thứ nhất trong số các quốc gia tiếp nhận viện trợ phát triển (ODA) của Hàn
Quốc. Giao lƣu giữa nhân dân hai nƣớc Hàn-Việt cũng phát triển dƣới nhiều hình
thức đa dạng. Theo số liệu thống kê tính đến tháng 12 năm 2012 thì có khoảng
100.000 ngƣời Hàn Quốc đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam (tại thành phố
Hồ Chí Minh và lân cận là 85 nghìn ngƣời, tại Hà Nội và vùng ngoại vi khoảng 15
nghìn ngƣời). Ngƣợc lại, cũng có 120.468 ngƣời Việt Nam đang sinh sống và làm
việc tại Hàn Quốc. Tổng cục du lịch Hàn Quốc cũng cho biết, chỉ năm 2012 đã có
700.917 ngƣời Hàn Quốc đến du lịch ở Việt Nam và 32.141 ngƣời Việt Nam đến
thăm Hàn Quốc. Mỗi tuần có 182 chuyến bay qua lại giữa hai nƣớc, và Hàn Quốc là
quốc gia đứng thứ nhất về lƣợng khách du lịch đến thăm Việt Nam. Vì thế, số ngƣời
đã, đang học tiếng Hàn và số ngƣời mong muốn sẽ học tiếng Hàn để phục vụ cho
công việc, sinh hoạt, làm việc, sinh sống tăng lên nhanh chóng khiến cho các cơ sở
đào tạo tiếng Hàn quốc cũng phát triển rất nhanh. Bên cạnh các trƣờng đào tạo
chính quy, số các trung tâm ngoại ngữ lớn nhỏ tổ chức giảng dạy tiếng Hàn đã tăng
đến mức khó để đƣa ra đƣợc một thống kê chính xác.
Trong bối cảnh trên nhu cầu học tiếng Hàn là rất lớn nhƣng tất cả các học
viên đều khẳng định “tiếng Hàn rất khó”. Khó khăn của việc học ngoại ngữ này có
thể bắt nguồn từ nhiều lý do nhƣ sự khác biệt về văn hoá, lối sống, cách tƣ duy, và
môi trƣờng xã hội .v.v. Nhƣng theo chúng tôi, khó khăn đầu tiên và căn bản nhất
xuất phát từ sự khác biệt về đặc điểm loại hình ngôn ngữ. Thực vậy sinh viên nói
tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, đại diện tiêu biểu của loại hình ngôn ngữ đơn lập, khi tiếp
xúc với tiếng Hàn đại diện điển hình của loại hình ngôn ngữ chắp dính, phải đối mặt
với nhiều khó khăn do sự khác biệt ngôn ngữ gây ra.
4
Nhằm góp phần giúp sinh viên Việt Nam khắc phục những khó khăn khi học
tiếng Hàn, chúng tôi tập trung “Nghiên cứu đối chiếu phƣơng thức biểu hiện thời
gian trong tiếng Hàn và tiếng Việt” với mục tiêu chính là mô tả hệ thống biểu
hiện thời gian trong tiếng Hàn, xác định những phƣơng thức biểu hiện thời gian
tƣơng đƣơng trong tiếng Việt, phân tích những điểm giống nhau và khác nhau giữa
phƣơng thức biểu hiện thời gian trong hai ngôn ngữ; từ đó nhấn mạnh các điểm cần
lƣu ý trong quá trình giảng dạy và học tập cũng nhƣ trong quá trình dịch thuật từ
tiếng Hàn sang tiếng Việt và ngƣợc lại. Chúng tôi cũng hy vọng kết quả nghiên cứu
của luận án sẽ có những đóng góp đáng kể trên bình diện lý luận ngôn ngữ nói
chung và trên bình diện ứng dụng vào giảng dạy tiếng Hàn nói riêng.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án này là thông qua nghiên cứu theo hƣớng đối chiếu phƣơng
thức biểu thị thời gian trong tiếng Hàn và Việt, góp phần làm sáng tỏ đặc điểm của
phƣơng thức biểu hiện thời gian trong các ngôn ngữ đối chiếu trong chức năng phản
ánh đặc trƣng tƣ duy văn hóa dân tộc.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ sau.
2.2 Nhiệm vụ của luận án
1) Phân tích, hệ thống hóa cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu.
2) Tổng quan tình hình nghiên cứu về biểu hiện thời gian trong tiếng Hàn và
tiếng Việt.
3) Tập trung khảo sát một trong những phƣơng thức biểu hiện thời gian là thời
và thể động từ trong tiếng Hàn và đối chiếu với tiếng Việt nhằm chỉ ra những tƣơng
đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ.
4) Đề xuất một số ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc giảng dạy thời và thể
động từ tiếng Hàn cho sinh viên Việt Nam trên cơ sở phân tích lỗi sử dụng động từ
của sinh viên và đề xuất phƣơng pháp khắc phục.
5
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
3.1 Phạm trù “thời” và “thể” trong các nghiên cứu ngôn ngữ học
Theo đánh giá mới đây của Unesco, trên thế giới có 6800 ngôn ngữ. Chúng ta
đều biết trong đa số trƣờng hợp, những gì đƣợc biểu đạt ở ngôn ngữ này cũng có thể
đƣợc thể hiện ở các ngôn ngữ khác. Điều này có nghĩa các ngôn ngữ đều có những
năng lực phổ quát nhất định. Tuy nhiên mỗi ngôn ngữ lại có những năng lực đặc thù
phản ảnh tính đặc trƣng của loại hình ngôn ngữ và đặc trƣng văn hóa của dân tộc sử
dụng nó.
Khi diễn đạt một nhận định về một sự tình bất kỳ, ngƣời nói cần sử dụng các
phƣơng tiện ngôn ngữ và tuân thủ các quy tắc ngữ pháp. Trong biểu đạt ý nghĩa thời
gian các phƣơng tiện đƣợc sử dụng gồm phƣơng tiện từ vựng (hệ thống các từ chỉ
thời gian) và phƣơng tiện ngữ pháp (thời, thể, tình thái ở vị từ,.v.v) hoặc các
phƣơng tiện ngữ nghĩa phái sinh1
hình thành. Phạm trù thời và thể đƣợc khẳng định
là những phạm trù ngữ pháp quan trọng của động từ trong các ngôn ngữ Châu Âu.
Theo giới hạn nghiên cứu trình bày trên đây, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào vấn đề
“thời” và “thể” trong hai ngôn ngữ Hàn-Việt.
Trƣớc hết chúng ta nhận thấy trong các nghiên cứu về ngữ pháp ngữ nghĩa tiếng
Hàn, phạm trù “thời” chiếm vị trí quan trọng, đƣợc hầu hết các công trình nghiên
cứu đề cập đến. Nhìn lại lịch sử nghiên cứu tiếng Hàn, mà khởi đầu là các nghiên
cứu về hình thái học, vấn đề “thời” trong tiếng Hàn đã thu hút đƣợc sự quan tâm
của các nhà Hàn ngữ ngay từ những năm 90 của thế kỷ trƣớc. Tựu trung lại có hai
xu hƣớng nghiên cứu chính nhƣ sau:
- Xu hƣớng thứ nhất có quan điểm độc lập thể hiện qua những nghiên cứu của
nhóm học giả quý tộc Hàn quốc, vốn là những ngƣời có quan điểm riêng, không
chịu ảnh hƣởng của các trƣờng phái nghiên cứu nào khác.
1
“Phƣơng tiện ngữ nghĩa phái sinh” là khái niệm chúng tôi tự đặt ra để chỉ những phƣơng tiện biểu
hiện vốn không phải có sẵn mà phái sinh nhờ sự kết hợp với các yếu tố xung quanh từ đó tạo ra
một giá trị biểu thị. Ví dụ: bối cảnh, tình huống, logic thoại, logic văn mạch .v.v.
6
- Xu hƣớng thứ hai chịu ảnh hƣởng của ngôn ngữ học phƣơng Tây, bắt đầu từ sau
năm 1970, khi các nhà truyền giáo đến Hàn Quốc, mang theo các kết quả nghiên
cứu ngôn ngữ học lý thuyết của châu Âu.
Cho đến nay các nhà nghiên cứu thuộc hai xu hƣớng khởi nguồn này vẫn còn
nhiều ý kiến trái ngƣợc nhau do dựa vào cơ sở lý thuyết và áp dụng phƣơng pháp
tiếp cận khác nhau. Điều này chứng tỏ phạm trù “thời” trong tiếng Hàn là một phạm
trù phức tạp, đòi hỏi phải thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu.
Những nghiên cứu sớm nhất về “thời” trong tiếng Hàn là của Choi Kwang Ok
(1908), và Chu Si Kyung (1910). Ngay từ đầu thế kỉ 20, các tác giả đã đặt ra những
vấn đề nghiên cứu tạo tiền đề cho nhiều nghiên cứu khác.
Cụ thể, Choi Kwang Ok (1908) cho rằng trong tiếng Hàn có sự tồn tại của thời
“quá khứ của quá khứ”. Chu Si Kyung (1910) chia thời gian thành ba “thời”: hiện
tại (lúc này), quá khứ (thời điểm đã qua) và tƣơng lai (thời điểm sẽ đến) đƣợc biểu
hiện bằng cả biểu thức liên kết (hình thái tố liên kết câu) và biểu thức kết thúc (hình
thái tố kết thúc câu). Trong nghiên cứu của mình, tác giả Chu Si Kyung đã dựa vào
tiêu chí thời điểm phát ngôn (lúc này/khi đó) để phân chia và mô tả ba thời nêu trên.
Tuy nhiên ông cũng thay đổi quan điểm về thời điểm của hành động, và cho rằng về
bản chất “thể” đã chứa đựng các yếu tố biểu hiện “thời”. Nhƣ vậy tác giả đã không
tách rời hai phạm trù “thời” và “thể”. Vì thế có thể coi nghiên cứu của ông là khởi
điểm cho xu hƣớng nhận thức “thời-thể” là một phạm trù phức hợp trong tiếng Hàn.
Ngoài ra, Chu Si Kyung cũng cho rằng hình thái tố ~ 겠 có giá trị biểu thị tƣơng lai,
và đây là giá trị nội tại của hình thái tố này, không phải nhờ đến các yếu tố khác
mới có. Một phát hiện nữa của tác giả là ông đã nhận thấy hình thái tố này là lƣỡng
thái, nó vừa biểu hiện “thời” vừa biểu hiện “thể”. Kết quả nghiên cứu của Chu Si
Kyung đã khẳng định xu hƣớng cho rằng một hình thái tố có thể có hơn một giá trị
nghĩa, cụ thể là ở ~ 겠.[100]
Sau Chu Si Kyung, vào những năm 1930, Park Seung Bin (1935) và Choi Hyun
Bae (1937) đã từng bƣớc cụ thể hoá phạm trù thời trong tiếng Hàn khi các tác giả
7
mô tả, ngữ pháp hoá hoặc nghiên cứu từng hình thái tố và chỉ ra những lớp nghĩa
khu biệt của chúng. Park Seung Bin đặc biệt chú ý đến thời quá khứ hoàn thành và
thời quá khứ của quá khứ do các hình thái tố ~ 었 và ~ 었었 biểu thị. Ngoài những
nghiên cứu mô tả phƣơng thức biểu hiện thời và thể trong tiếng Hàn nói chung,
Choi Hyun Bae còn có một số nghiên cứu về giá trị biểu hiện nghĩa hoàn thành mà
hình thái tố ~ 었 là công cụ biểu hiện.
Sau Choi Hyun Bae, Martin, S.E. (1954), Kim Ik Byung (1976), Lee Seung Uk
(1977) đã phân tích sâu các giá trị ngữ nghĩa của các hình thái tố biểu hiện thời
gian. Các tác giả đã xác định ý nghĩa thời, thể đƣợc biểu đạt bởi hình thái tố ~
는/ㄴ(chỉ hiện tại) trong các tổ hợp kết thúc câu ~ 는다/ㄴ다, và cho rằng cần phải
tách hình thái tố ~ 는/ㄴ (chỉ hiện tại ) này ra khỏi cấu trúc kết thúc ~ 는다/ㄴ다 để
xem xét giá trị biểu đạt thời và thể của nó.
Giai đoạn sau 1970, các nghiên cứu về thời trong tiếng Hàn đã phát triển mạnh
mẽ cả về số lƣợng và chất lƣợng. Phải nói rằng, ở giai đoạn này, lý luận ngôn ngữ
châu Âu đƣợc các nhà truyền giáo phƣơng Tây đƣa vào Hàn Quốc đã đƣợc các nhà
ngôn ngữ học bản địa nhanh chóng tiếp thu và ứng dụng rộng rãi. Điều này giải
thích vì sao ở giai đoạn này đa số quan điểm nghiên cứu, lý luận ngôn ngữ Hàn nói
chung và các nghiên cứu về biểu hiện thời gian trong tiếng Hàn nói riêng trùng hợp
với các luận điểm của ngôn ngữ học châu Âu. Ngoài ra, các hình thái tố biểu hiện
“thời” trong tiếng Hàn cũng đƣợc nghiên cứu theo mô hình khung thời gian ngữ
pháp của các ngôn ngữ châu Âu.
Tiếp thu những thành quả nghiên cứu có trƣớc mà chủ yếu là các công trình coi
“thời” là trọng tâm, ở thời kỳ này, các tác giả đã xem xét lại các hình thức biểu hiện
thời gian trong tiếng Hàn và nhƣ các công trình nghiên cứu trƣớc đó công nhận hình
thái tố là đa trị, vì ngoài chức năng biểu đạt “thời” nó còn có giá trị biểu đạt “thể”
và “tình thái”. Nhìn tổng thể, giai đoạn sau 1970, các nghiên cứu về “thời” trong
tiếng Hàn đều tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Thứ nhất: xem xét lại quan điểm về “thời”,