Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

luận văn nghệ thuật xây dựng kết cấu và tổ chức trần thuật
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Có thể nói, nỗ lực đổi mới không ngừng là hướng đi chủ yếu của văn học
Việt Nam sau 1975 và đó chính là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo
nên tính đa dạng và phong phú của giai đoạn văn học này. Đặc biệt, đối với
các nhà văn “hậu đổi mới” (từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX đến nay),
vấn đề quan tâm lớn nhất “không còn là viết về cái gì mà viết như thế nào”.
Có thể thấy điều đó qua một loạt sáng tác của các tác giả tiêu biểu như:
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái,
….Cùng với những thay đổi về tình hình văn hoá - xã hội và xu thế cách tân
mạnh mẽ của văn học trong nước và thế giới, dòng văn học ngoài nước cũng
có những bước bứt phá, đổi mới về nhiều mặt. Trong số những cây bút tiêu
biểu ấy, Thuận là một gương mặt nổi bật với những trăn trở, thể nghiệm mới
trong sáng tác.
1.2. Cho dù không ít người tỏ ra hoài nghi về số phận của tiểu thuyết thì đến
nay, tiểu thuyết vẫn tiếp tục phát triển và thực sự vẫn là “thể loại cái”, đóng
vai trò quyết định đối với sự phát triển và quy mô của bất cứ một nền văn học
văn học nào. Một mặt, tiểu thuyết xâm thực vào các thể loại, mặt khác, dung
nạp vào nó ưu thế của nhiều thể loại để tạo nên “dưỡng chất” cho mình. Ngay
cả cây bút xuất sắc trong lĩnh vực truyện ngắn như Nguyễn Huy Thiệp cũng
từng khẳng định: thời nay là thời của tiểu thuyết! Với Thuận, sau một số
truyện ngắn, tiểu thuyết thực sự là “cuộc phiêu lưu nguy hiểm” nhằm đi tìm
và khẳng định những giá trị mới của chị.
1.3. Những nỗ lực của Thuận đã được ghi nhận bằng sự chào đón nồng nhiệt
của độc giả và Tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2005 cho cuốn
Paris, 11 tháng 8 (2005). Chính vì vậy, nghiên cứu những cách tân trong tiểu
thuyết của Thuận là một hướng đi triển vọng trong việc nhìn nhận, khám phá
tài năng của nhà văn cũng như những hướng cách tân của tiểu thuyết Việt
1
Nam sau đổi mới. Đây cũng chính là lựa chọn của chúng tôi trong quá trình
thực hiện luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Thuận mới chỉ xuất hiện trên văn đàn Việt Nam dăm năm trở lại đây,
nhưng những tác phẩm của chị đã gây “sốt” với độc giả và giới phê bình.
Luôn có ý thức cách tân văn học, nghiêm túc với công việc của mình, bạo dạn
và thậm chí khiêu khích với thẩm mỹ truyền thống, Thuận nhận được không ít
sự ủng hộ cũng như bài xích, chê bai.
Tuy nhiên, cho đến nay những ý kiến về Thuận chỉ là những bài báo,
phỏng vấn, điểm sách, những bài phê bình nhỏ lẻ, … chưa có công trình nào
đáng kể. Trong những tài liệu mà chúng tôi bao quát được, có thể tập hợp
thành một số ý kiến tiêu biểu sau:
2.1.1. Trong bài viết Suy nghĩ về dịch thuật và ngôn ngữ văn chương,
Cao Việt Dũng khẳng định: “Thuận đã tạo ra một thế giới khác, một thế giới
mong manh nằm trên biên giới các nền văn hóa, nhưng cùng lúc cũng là một
thế giới vững chắc với các nền móng chung, với những lối liên thông, với
những động hướng gần gũi nhau.” Thuận có “một thứ can đảm phi thường
trong một khí hậu văn chương đậm màu tầm thường đang vây bủa: can đảm
bịa đặt”. Cũng là dịch giả này, trong lời giới thiệu cuốn T mất tích, đã nhận
xét: “T mất tích đẩy xa hơn một bước rất dài ngưỡng cửa bất an và hoang
vắng của con người hiện đại trong các xã hội hiện đại. Con người trong T mất
tích không còn mang thân phận của kẻ tha hương bơ vơ trong một bối cảnh xa
lạ, mà lâm vào một tình thế khác không kém phần tuyệt vọng….Thuận tiếp
tục khẳng định sức viết dồi dào và khả năng chạm đến những ngõ ngách đặc
biệt trong cuộc sống thời đại chúng ta”.
2.1.2. Trong lời bạt cho Made in vietnam, Đoàn Cầm Thi cho rằng:
Thuận đã phản ảnh được “cái nhàn nhạt của xã hội Việt Nam hôm nay”, đã viết
một cuốn đặc biệt “không chương đoạn, không kết, không mở, không cao trào
2
xung đột”, “tạo cho tiểu thuyết một nhịp điệu ghồ ghề”. Trong bài I’m yellow:
Khoái cảm văn bản - đọc Chinatown của Thuận, Đoàn Cầm Thi đã có nhiều
phát hiện sâu sắc về lối viết, về những cách tân của Thuận. Bài viết nhấn mạnh:
Thuận đã đi tìm “một bình diện mới của thế giới”, đặt những di dân nhỏ bé
trong các chiều kích thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai để thấy rõ hơn
thân phận của họ. Đặc biệt Thuận đã tạo “phong cách thơ trong tiểu thuyết”.
Phong cách ấy được tạo nên bởi “nhiều câu mang tiết tấu lạ, nhưng cách đổi
nhịp vô cùng linh động…”, “bằng cách nói song hành khi tương phản khi hô
ứng”, “bằng cách luôn lạc đề, mải cuốn theo cuộc chạy đua với chữ”…
2.1.3. Trong một số công trình nghiên cứu khoa học, chúng tôi thấy có
nhiều ý kiến phân tích về những cách tân trên nhiều phương diện trong tiểu
thuyết của Thuận. Luận văn Ý thức về nhịp điệu trong một số tiểu thuyết Việt
Nam thời đổi mới của Lê Thị Thanh Huyền đề cập đến tính nhịp điệu được ý
thức rõ rệt trong tiểu thuyết của Thuận, đặc biệt từ các phép lặp ở nhiều cấp độ.
Trong luận văn Những cách tân nghệ thuật theo hướng hiện đại của tiểu thuyết
Việt Nam thời kì đổi mới, tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga cũng đề cập, phân
tích về những cách tân của Thuận ở phương diện nhân vật, tổ chức điểm nhìn
trần thuật và giọng điệu mang tính chất uymua đen. Nhịp điệu tiểu thuyết
Chinatown ở hai cấp độ cơ bản: lớp cấu trúc hình tượng và lớp cấu trúc hình
thức cũng đã được tìm hiểu trong báo cáo khoa học Nhịp điệu tự sự trong
Chinatown của Thuận của sinh viên Đỗ Thị Thoan (04/2006)
2.1.4. Những tiểu thuyết của Thuận đã gây sự chú ý đối với dư luận.
Điều đó thể hiện ở rất nhiều ý kiến đánh giá, phân tích phê bình, nhiều bài giới
thiệu sách, phỏng vấn được đăng trên các báo mạng hoặc website cá nhân:
- Ngôn ngữ Việt thừa tinh tế để sáng tạo [40]
- Phỏng vấn tác giả Made in vietnam [73]
- Khi nhà văn yên vị tức là lúc ngòi bút bất lực [51]
- Các bài phỏng vấn trên website Phongdiep.net [74]
3
- Với tôi mỗi tác phẩm như một chuyến đi xa. [32]
- Đôi nét về thi pháp và kết cấu của Chinatown [22]
- Thuận và Phố Tàu: dùng nghịch lí để kể những nghịch lí[23]
…………
Nhìn chung các ý kiến đều cho rằng Thuận đã có nhiều nỗ lực đổi mới
và là một gương mặt trẻ độc đáo, đầy triển vọng của văn học Việt Nam đương
đại với một lối viết hiện đại, tinh thần cách tân mãnh liệt và kiên quyết chối từ
truyền thống. Sáng tác của Thuận hàm chứa chất hài hước sâu thăm thẳm,
không lẫn với bất cứ ai, không lấp đi được cái bi kịch lớn lao của cuộc sống, đó
là một giọng văn luôn hàm ý giễu cợt, là nhịp điệu lạ lùng xuyên suốt cuốn
sách và xuyên suốt cả một cuốn tiểu thuyết dang dở nội tiếp trong đó …. Lời
giới thiệu của dịch giả Dương Tường như một nhận định tiêu biểu: “Ngổn
ngang và tung tóe những mảnh của một trò chơi ghép hình không chương hồi
liền một mạch suốt hơn 200 trang sách, bề bộn những suy ngẫm, hình tượng,
chi tiết nhấn đi nhấn lại bất tận đến thành ám ảnh, như lưỡi dao cùn nhay mãi
không dứt, như cái đĩa hát cũ bị vấp rãnh, cuốn sách đậm đặc một thứ humour
xót xa và không thiếu những yếu tố mà giờ đây người ta gọi là hậu hiện đại này
nhiều lúc làm tôi như nhập đồng”. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cũng
đánh giá cao sức lao động văn chương của Thuận, cho rằng “các tác phẩm của
Thuận có những tìm tòi về nội dung và nghệ thuật, rõ nhất là về cách viết”
[37].
2.2. Trong các tài liệu mà chúng tôi bao quát được, những cách tân trong
tiểu thuyết của Thuận chỉ mới được đề cập qua một số bài viết nhỏ lẻ, trong
từng tác phẩm cụ thể, chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện. Tuy
nhiên, đó cũng là những gợi ý quý báu cho chúng tôi thực hiện luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1 Đối tượng
4
- Nghiên cứu những nét mới về nghệ thuật tiểu thuyết ở góc độ lí
luận và thực tiễn tiểu thuyết Việt Nam trong nước cũng như văn học ngoài
nước sau đổi mới.
- Nghiên cứu những cách tân trong tiểu thuyết của Thuận ở các
phương diện: quan niệm nghệ thuật, kết cấu và nhân vật, đi tìm một giọng
điệu riêng.
3.2. Phạm vi
Luận văn chủ yếu khảo sát các tiểu thuyết của Thuận đã được xuất bản:
1. Made in Vietnam
2. Chinatown
3. Paris 11 tháng 8
4. T mất tích
Ngoài ra, người viết sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu với một số tiểu thuyết,
truyện ngắn của một số nhà văn trong và ngoài nước để làm nổi rõ hơn những
đóng góp nghệ thuật của Thuận.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thống kê
Để khái quát những cách tân của Thuận, chúng tôi sử dụng phương pháp
khảo sát thống kê nhằm làm cơ sở cho những khái quát khoa học của mình.
Trong luận văn, phương pháp này được vận dụng chủ yếu khi: thống kê tần số
xuất hiện của các kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận, khảo sát
thống kê tỉ lệ sử dụng câu (độ dài ngắn khác nhau), các phép lặp….
4.2. Phương pháp phân tích
Phương pháp này nhằm cụ thể hóa các phương diện cách tân trong tiểu
thuyết của Thuận dựa trên những nét khái quát mà phương pháp khảo sát
thống kê đã chỉ ra.
4.3. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp nhằm tìm ra những cách tân của tiểu thuyết đương
đại, những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam (trong nước và ngoài nước) sau
5
1975 trên cả hai bình diện lý thuyết và thực tiễn, làm rõ những cách tân của
Thuận trong tiểu thuyết so với các nhà văn trước đó và cùng thời.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Lần đầu tiên luận văn đặt vấn đề nghiên cứu cách tân trong tiểu thuyết
của Thuận một cách tương đối hệ thống và toàn diện.
- Người viết sẽ cố gắng sử dụng những tri thức về thi pháp học và tự sự
học để đi sâu phân tích sự đổi mới trong quan niệm và kỹ thuật xây dựng tiểu
thuyết của Thuận.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng xem như đây chỉ là một đề án, một thử nghiệm
bước đầu để khám phá cây bút tiểu thuyết nhiều cách tân này.
6. Cấu trúc của luận văn
Tương ứng với nhiệm vụ đặt ra ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Thuận trong bối cảnh đổi mới tiểu thuyết hiện nay
Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng kết cấu và tổ chức trần thuật
6
CHƯƠNG 1
THUẬN TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT HIỆN NAY
1.1. Những nỗ lực cách tân của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
1.1.1. Tiểu thuyết trong nước – hành trình tìm tòi đổi mới từ 1975 đến nay
Cùng với những đổi thay có tính chất bước ngoặt của lịch sử, văn học
Việt Nam trong nước sau 1975 cũng có những bước chuyển mình rõ rệt.
Người ta đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa và yêu cầu văn
học phải được “cởi trói”, thoát ra khỏi thứ văn học “phải đạo”. Cùng với tiến
trình vận động của văn học dân tộc, tiểu thuyết Việt Nam cũng có nhiều nỗ
lực đổi mới, cách tân.
Theo các nhà nghiên cứu, văn học Việt Nam ba mươi năm qua đã đi
qua ba chặng đường: từ 1975 đến 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học sử
thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến; từ 1986 đến đầu thập kỉ 90 là
thời kỳ văn học đổi mới sôi nổi, mạnh mẽ, gắn liền với chặng đầu của công
cuộc đổi mới đất nước; từ năm 1993 đến nay, văn học trở lại với những qui
luật bình thường và hướng sự quan tâm hơn vào vấn đề cách tân nghệ thuật.
Có thể nói, từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ
nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời kì hậu
chiến. Tính chất chuyển tiếp thể hiện rõ ở nhiều phương diện: đề tài, cảm
hứng, các phương thức nghệ thuật và qui luật vận động của văn học. Ở nửa
cuối thập kỉ 70, những năm liền ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, khuynh hướng sử thi vẫn được tiếp tục nhưng mờ nhạt
dần với những tiểu thuyết, kí sự, hồi kí về chiến tranh, tiêu biểu như: Họ cùng
thời với những ai (Thái Bá Lợi), Tháng Ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải),
Năm 75 họ đã sống như thế nào (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng (Nguyễn
Trọng Oánh), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu)…..
Tất nhiên bên cạnh việc tiếp tục mảng đề tài lịch sử, tái hiện, khai thác
“dữ liệu” từ cuộc kháng chiến chống Mĩ oanh liệt, văn xuôi sử thi sau 1975
7
cũng có những khác biệt nhất định so với trước. Nhà văn có tâm thế, điều kiện
để nhìn lại quá khứ, phân tích lí giải những chiến công rạng rỡ cũng như thấm
thía những mất mát đau thương - hệ quả tất yếu của chiến tranh mà trước đây
họ phải tạm quên đi hoặc né tránh. Một số cây bút cũng đã kịp thời phản ánh
những bộn bề sau cuộc chiến, có niềm vui, hạnh phúc, được đoàn tụ, được tự
do, được sống trong hòa bình, nhưng cũng có không ít những khó khăn, phức
tạp, thậm chí cả những mâu thuẫn xung đột trong cuộc sống ở một đất nước
mới hồi sinh, thống nhất (Những khoảng cách còn lại - Nguyễn Mạnh Tuấn,
Miền cháy - Nguyễn Minh Châu….). Bước vào những năm đầu thập kỉ 80,
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi
vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Văn học cũng chững lại, không ít
người lâm vào tình trang bối rối mất phương hướng trong sáng tác. Họ vẫn
chưa thoát khỏi quán tính của dòng chảy văn học thời trước, lúng túng trước
một hiện thực mới, không còn chiến tranh, không còn tiếng súng, không còn
máu đổ nhưng cũng không kém phần cam go, phức tạp muôn dạng hình, cùng
với những đòi hỏi mới của người đọc. Nhưng đây cũng là thời điểm “lửa thử
vàng” của những người cầm bút. Những tìm tòi, trăn trở, suy tư thầm lặng mà
mãnh liệt ở một số nhà văn có tấm lòng và ý thức trách nhiệm cao về nghề đã
góp phần mở ra cho văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng những hướng
tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là cái hiện thực đời thường với
những vấn đề đạo đức thế sự đang tồn tại nổi cộm, đòi hỏi văn học phải nhận
thức khám phá.
Từ đầu 1986 đến đầu những năm 90 là giai đoạn văn học đổi mới, tập
trung vào mô tả hiện thực với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Khuynh hướng
nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân
bản chiếm ưu thế chủ đạo. Trong giai đoạn này, tiểu thuyết đã thực sự đổi mới
về tư duy nghệ thuật, bộc lộ khả năng vượt trội của mình trong cách “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, bao quát được các
vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và con người. Nhiều cây bút đã phơi bày
8
những mặt trái còn bị che khuất, lên án những lực lượng, những thói quen,
nếp sống, cách hành xử lạc hậu, lỗi thời làm cản trở quyền sống, quyền mưu
cầu hạnh phúc chính đáng của con người cũng như sự phát triển của xã hội.
Tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho
khuynh hướng này và đã trở thành một sự kiện văn học nổi bật của những
năm 1986 – 1987. Tiếp đó là một loạt các tiểu thuyết và truyện ngắn xuất hiện
cuối thấp kỉ 80 và 90 như: Mùa là rụng trong vườn, Ngược dòng nước lũ (Ma
Văn Kháng), Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Đất
trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Đứng trước biển vắng, Phố, Cuộc đời dài lắm
(Chu Lai), Đời thường (Phùng Khắc Bắc), Bến không chồng (Dương
Hướng), Những thiên đường mù (Dương Thu Hương), Lạc rừng (Trung
Trung Đỉnh), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Đi tìm nhân vật, Thiên
thần sám hối (Tạ Duy Anh)…Chiến tranh vẫn là một đề tài “nóng” nhưng
niềm tự hào rạng rỡ vì chiến thắng đã nhường chỗ cho những hệ lụy đau
buồn, những mất mát, hi sinh, những xót xa, đau đớn mà chiến tranh đã tác
động đến mỗi con người, đến cả dân tộc. Những “hòn vọng phu” trên khắp
đất nước Việt nam, những tham vọng quyền lực chà đạp lên tình đồng chí
đồng đội, những nỗi buồn dai dẳng của những thế hệ phải trải qua cuộc
chiến ấy…đều được thể hiện rõ trong Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam
(Nguyễn Minh Châu), Thân phận tình yêu (bảo Ninh)…Các tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp lại phơi bày sự khủng hoảng của xã hội qua việc thay đổi
các giá trị và lối sống (Tướng về hưu, Không có vua….). Những góc khuất
lấp đáng sợ, tàn ác, lạnh lùng của con người, những mảng tối phơi bày nhức
nhối như một lời thức tỉnh. Tiếp tục hướng tiếp cận đời sống trên bình diện
thế sự - đời tư đã được mở ra ở nửa đầu những năm 80, nhiều cây bút đã đi
vào thể hiện những khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự
đan dệt nên cuộc sống đời thường phức tạp.
So với những tác phẩm văn học trước đây, văn học giai đoạn này mang
một nhiệt tình phê phán dữ dội hơn rất nhiều. Tuy vậy, cảm hứng phê phán có
9
lúc cũng đẩy tới cực đoan. lệch lạc, nhiều cây bút bộc lộ một cái nhìn ảm đạm,
hoài nghi.
Sự xuất hiện cảm hứng sự thật, quả thực là một tất yếu nhưng cũng là
điều tất yếu mà văn học phải vượt qua để tìm đến những chiều sâu mới.
Người đọc chờ nhà văn qua những vận động xã hội phức tạp đó đưa đến cho
họ những tổng kết nhân văn sâu sắc, lâu dài.
Từ cuối những năm 90 đến nay, trong xu thế ổn định của xã hội, văn
học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường nhưng
vẫn kiên trì đi theo định hướng đổi mới đã hình thành từ những năm 80. Nếu
như trước đó, động lực thúc đẩy văn học đổi mới là nhu cầu đổi mới xã hội và
khát vọng dân chủ, thì khoảng mười năm trở lại đây, văn học quan tâm nhiều
hơn đến sự đổi mới của chính nó. Vấn đề đặt ra không còn là viết cái gì mà là
viết như thế nào, như có người đã nói: “sáng tạo nghệ thuật trước hết là sáng
tạo hình thức”. Sự đổi mới này thể hiện trên nhiều thể loại của văn học. Trong
thơ, những cách tân theo hướng hiện đại đã thu hút được nhiều cây bút thuộc
các thế hệ khác nhau: Lê Đạt (Bóng chữ), Trần Dần (Cổng tỉnh, Mùa sạch),
Dương Tường (36 bài tình), Nguyễn Quang Thiều (Sự mất ngủ của lửa)
….Gần đây một số cây bút trẻ đã can đảm dấn thân tìm tòi những thể nghiệm
mới từ hình thức đến nội dung, nhiều khi đầy táo bạo trong hướng đi sâu vào
những khát vọng thầm kín, mãnh liệt, thành thực phơi bày trên trang giấy
(Đồng Đức Bốn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh,
….)
Những thể nghiệm mạnh bạo để cách tân tiểu thuyết được các tác giả
thực hiện trong hàng loạt tiểu thuyết gần đây: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Hồ
Quý Li (Nguyễn Xuân Khánh), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Cơ hội của
Chúa (Nguyễn Việt Hà), Người đi vắng, trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy, Ngồi
(Nguyễn Bình Phương), Người sông Mê (Châu Diên), Giàn thiêu (Võ Thị
Hảo), Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái),
China town, T mất tích(Thuận)……
10