Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

luận văn nghệ thuật kể chuyện trong phim rừng nauy của trần anh hùng và tiểu thuyết cùng tên của
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
PHIM RỪNG NAUY
(Chuyển thể từ tiểu thuyết Rừng Nauy của nhà văn Haruki Murakami)
Đạo diễn: Trần Anh Hùng
Sản xuất: Kameyama Chihiro , Shinji Ogawa
Kịch bản: Tiểu thuyết : Murakami Haruki
Chuyển thể: Trần Anh Hùng
Diễn viên: Kikuchi Rinko
Matsuyama Kenichi
Mizuhara Kiko
Âm nhạc: Jonny Greenwood
Quay phim : Lý Bình Tân
Thời lượng: 120 phút
Quốc gia: Nhật Bản
Ngôn ngữ: tiếng Nhật
1 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
Công chiếu: 2010
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không thể phủ nhận những thành quả mà điện ảnh mang lại trong hành trình
khám phá và phản ánh đời sống của con người, mang những câu chuyện kỳ thú
trên thế giới phiêu du ngay trước mắt người xem. Có thể nói, điện ảnh là một
loại hình nghệ thuật trẻ tuổi nhất và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các loại hình
nghệ thuật gần gũi hình thành nên một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Trong
tương quan đó, điện ảnh chịu ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ của văn học ngay từ
khi mới ra đời. Giữa hai loại hình này có mối quan hệ hết sức bền vững. Điện
ảnh lấy cảm hứng, chất liệu từ mạch nguồn phong phú của kho tàng văn học,
tiếp thu kinh nghiệm nghệ thuật và các thủ pháp biểu hiện của văn học và ngược
lại “điện ảnh cũng làm thay đổi tiểu thuyết”. Như vậy trong quá trình kế thừa
những tinh hoa nghệ thuật của văn học cũng như các loại hình khác, điện ảnh
cũng “dần dần tích luỹ được những thủ pháp nghệ thuật của mình, sáng tạo ra
ngôn ngữ riêng của mình” [13; 39]. Xét về phương thức biểu hiện, văn học là
ngôn ngữ của ngôn từ và điện ảnh là ngôn ngữ của hình ảnh đã dẫn đến nghệ
thuật kể chuyện của hai loại hình khác nhau.
Khi tiếp nhận một bộ phim hay một cuốn tiểu thuyết, điểm hấp dẫn không
chỉ là những yếu tố cấu thành tác phẩm mang tính chất đặc thù của thể loại mà
còn có một yếu tố tiên quyết là cách thức mà nhà văn và đạo diễn kể câu chuyện
đó như thế nào. Vấn đề nghệ thuật kể chuyện đóng vai trò quan trọng trong tác
phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh vì đó là con đường đi đến với công chúng
thưởng thức nghệ thuật. Cùng một chủ đề đề tài, cùng một câu chuyện nhưng ở
mỗi loại hình nghệ thuật lại được hiện hình với một hình thức khác nhau bởi
ngôn ngữ đặc trưng riêng. Nghiên cứu về cách kể hay chính là nghệ thuật kể
chuyện trong điện ảnh so với tiểu thuyết là một hướng đi rất mới mẻ và đầy thú
2 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
vị. Cách tiếp xúc này giúp ta có cách thâu tóm và chạm tay gần nhất để bóc tách
những đặc trưng của điện ảnh so với văn học. Ngày nay, vấn đề chuyển thể tác
phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh ngày càng trở nên quen thuộc. Các tác
phẩm văn học được ưa thích đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận đối với các bộ
phim. Câu chuyện trong tác phẩm văn học khi được chuyển thể lên phim dù
muốn hay không cũng được đạo diễn thể hiện theo trận đồ kể chuyện của điện
ảnh.
Tiểu thuyết Rừng Nauy của Haruki Murakami được xuất bản năm 1987 thực
sự là một hiện tượng lạ với bốn triệu bản sách và theo thống kê cứ bảy người
Nhật thì có một người đọc. Cuốn sách nhanh chóng trở thành bestseller ở bất cứ
nơi đâu xuất hiện, trở thành cuốn sách gối đầu giường của giới trẻ Nhật Bản nói
riêng, giới trẻ thế giới nói chung và đã đưa tác giả của nó lên thành một trong
những nhà văn hàng đầu của Nhật Bản. Glasgow Hirald đã nhận xét “Một câu
chuyện xúc động đến ngạt thở… Không nghi ngờ gì Murakami là một trong
những tiểu thuyết gia tinh tế nhất thế giới”. Đây là một câu chuyện “khắc hoạ
những khát vọng bất thành của tuổi thanh xuân, những tư tưởng quá khích, sự
lựa chọn cái chết và quá trình trưởng thành - một thứ kinh nghiệm mà ai cũng
phải trải qua trong đời. Nó vừa mạnh mẽ, vừa tinh tế, giàu tình gợi dục và cả
chất thơ”. Chính vì thế, khi đạo diễn Trần Anh Hùng chuyển thể câu chuyện lên
phim Rừng Nauy đã gây một làn sóng dư luận lớn như đã từng có khi tiểu thuyết
ra đời. Mọi người tò mò về sự hiện hình bằng hình ảnh của câu chuyện được thể
hiện như thế nào và đã chuyển tải được tinh thần của câu chuyện hay chưa?
Để bộ phim Rừng Nauy được đưa lên màn ảnh là những nỗ lực không mệt
mỏi của đạo diễn Trần Anh Hùng trong suốt bốn năm ròng thuyết phục nhà văn
Haruki Murakami cùng sự đóng góp của cả ekip làm phim. Câu chuyện trong
tiểu thuyết Rừng Nauy của Haruki Murakami được chuyển thể lên màn ảnh với
một ngôn ngữ hoàn toàn mới, ngôn ngữ của hình ảnh. Nghiên cứu nghệ thuật kể
chuyện trong phim Rừng Nauy của Trần Anh Hùng và tiểu thuyết cùng tên của
Haruki Murakami là một hướng đi mang lại cho chúng ta những hiểu biết thú
3 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
vị. Lựa chọn đề tài này, người viết muốn đóng góp một phần nho nhỏ trong việc
lý giải ngôn ngữ của điện ảnh so với ngôn ngữ của văn học và cách Trần Anh
Hùng dùng để chuyển thể tiểu thuyết Rừng Nauy của Haruki Murakami lên màn
ảnh.
2. Lịch sử vấn đề
Ra đời muộn nhưng điện ảnh đã có những tiếp thu khá thú vị của các ngành
nghệ thuật khác hình thành cho mình những đặc trưng riêng. Xét về nghệ thuật
kể chuyện hay còn gọi là nghệ thuật tự sự, nghệ thuật trần thuật là khái niệm
được sử dụng khá rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu của văn học và điện ảnh.
Đây được coi là ngành nghiên cứu then chốt và rất được chú trọng trong việc
phân tích và phê bình phim trong tương quan với các văn học.
Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện hay chính là nghiên cứu cấu trúc tự sự học
trong văn học được giới nghiên cứu và phê bình đặc biệt quan tâm. Ra đời từ
năm 1969, thuật ngữ “tự sự học” là danh xưng do nhà nghiên cứu Tezvetan
Todorov đưa ra khởi đầu cho một ngành nghệ thuật nghiên cứu tự sự. Đây là sự
tiếp nối cho công trình nghiên cứu Thi pháp học của Aristote. Trong công trình
này đã chỉ ra cấu trúc cơ bản của một văn bản tự sự.
Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử có công trình nghiên cứu Tự sự
học và Lại Nguyên Ân có công trình Về việc mở ra môn trần thuật học trong
ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam là những bước đầu ghi dấu ấn nghiên cứu
tự sự trong văn học.
Đến với điện ảnh, nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện được rất nhiều học giả
quan tâm và đề cập đến trong khá nhiều các công trình nghiên cứu chuyên sâu
về điện ảnh.
Trong công trình Nghệ thuật điện ảnh (Film art) của David Bordwell và
Kristin Thomspon đã dành một phân cuốn sách cho việc nghiên cứu tự sự trong
phim. Toàn bộ chương ba của cuốn sách với nhan đề Phim tự sự như một hệ
thống hình thức đã tập trung nghiên cứu phương thức thể hiện của điện ảnh
trong việc kể chuyện theo hướng tự sự học.
4 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
Tác giả Warren Buckland với công trình nghiên cứu Tìm hiểu phim (Film
studies) người dịch Phạm Ninh Giang đã dành toàn bộ chương hai để viết về
Cấu trúc phim: tự sự và kể chuyện. Tự sự theo cách lý giải của nhà nghiên cứu,
đó là một loạt sự kiện có liên quan đến nhau theo chuỗi nguyên nhân - kết quả.
Nhà nghiên cứu Manfred Jahn và công trình nghiên cứu Nhập môn phân tích
phim theo trần thuật học (A Guide Narratological Film Analysis, Poem, anh
Prose: A Guide to the Theory of Literary Genres) đã có những nghiên cứu cụ
thể về phương thức thể hiện kết cấu, trần thuật và điểm nhìn trong điện ảnh. Đặc
biệt, công trình đã những ví dụ phim và phân tích nó dưới góc nhìn tự sự học
giúp ta có cách nhận diện câu chuyện được kể như thế nào trên phim.
Nhà nghiên cứu Timothy Corrigan trong cuốn sách Hướng dẫn viết về phim
(A Short Guide to Writing about Film - người dịch Đặng Nam Thắng, Phạm
Xuân Thạch hiệu đính) đã giành gần như toàn bộ chương ba Những thuật ngữ
và chủ đề phân tích phim và viết phê bình phim, đề cập đến các khái niệm tự sự,
nhân vật và điểm nhìn như một sự quan tâm đáng chú ý trong công việc nghiên
cứu điện ảnh. Trong chương này nhà nghiên cứu đã đi sâu vào khai thác những
đặc điểm rất xác thực về dàn cảnh, dựng phim, âm thanh, ánh sáng,… trong
cách kể chuyện của điện ảnh mang lại cho chúng ta cái nhìn cụ thể về điện ảnh.
Ở Việt Nam, chúng tôi được tiếp xúc với công trình Những vấn đề lý
luận kịch bản phim, tác gải Đoàn Minh Tuấn, giảng viên khoa Điện ảnh trường
Đại học sân khấu điện ảnh cũng trình bày một vấn đề về Cấu trúc tự sự và
những vấn đề liên quan.
Từ đây có thể thấy, vấn đề nghiên cứu tự sự học hay chính nghệ thuật kể
chuyện trong văn học và điện ảnh được quan tâm đặc biệt. Các công trình dù
lớn hay nhỏ đều góp phần làm cụ thể hơn những lý thuyết về nghệ thuật kể
chuyện.
Đặc biệt, nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong mối tương quan giữa văn
học và điện ảnh cũng được quan tâm trong các công trình nghiên cứu từ sách
xuất bản đến các bài đăng tạp chí hay khoá luận. Các công trình Bàn về cải biên
5 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
tiểu thuyết thành phim của Hạ Diễn và Dương Thiên Hỷ, Bàn về viết truyện
phim đạo diễn phim và diễn viên điện ảnh của V.Pu-đốp-kin, Đốp-gien-cô và
điện ảnh của I.Vaisphen, Phê bình phim Sta-pa-ep của N.Alê- bê-đep,… là
những nghiên cứu sâu sắc trong mối quan hệ giữa văn hcọ và điện ảnh. Bên
cạnh đó, còn có các bài đăng trên các tạp chí đưa ra những nghiên cứu đầy hữu
ích về lý thuyết trần thuật học giữa văn học và điện ảnh:
- Bài viết So sánh mĩ học tiểu thuyết và mĩ học điện ảnh của Magnin đăng
trên Điện ảnh Thế giới số 3.1983.
- Bài viết Lí luận trần thuật học đương đại và trần thuật học điện ảnh của
Lý Hiển Kiệt đăng trên tạp chí Đại học sư phạm Hoa Trung, số 6.1999.
- Bài viết Tính đối thoại của kết cấu trần thuật điện ảnh của La Nhạc đăng
trên Điện ảnh đương đại số 2.2005
- Bài viết Mối quan hệ giữa trần thuật học văn học và trần thuật học điện ảnh
đăng trên http://vanhocquenha.vn.
Và còn nhiều bài viết khác.
Trong các trường đại học cũng có các công trình khoá luận nghiên cứu về tác
phẩm văn học và phim truyện chuyển thể trên một số phương diện của nghệ
thuật tự sự:
- Mật mã điện ảnh Vinci - Từ tiểu thuyết đến điện ảnh (so sánh tác phẩm văn
học và tác phẩm điện ảnh) của Hà Thị Phượng (2007).
- Kết cấu, người kể chuyện và không gian trong phim Rashomon của đạo
diễn Kurosawa dưới góc nhìn trần thuật học của Đoàn Thị Bích Thuỳ (2008).
- Bộ phim Hồi ức của một Geisha dưới góc nhìn tự sự học của Hoàng Thi
Nga (2010).
- Tự sự và cấu trúc tự sự trong phim Vertigo của Alfred Hitchcock (nhìn từ
góc độ cấu trúc ba hồi, quan hệ nhân quả, người kể chuyện và không - thời gian)
của Thế Thị Vân (2010).
- Tiếp cận liên văn bản văn học và điện ảnh qua tác phẩm Người Mỹ trầm
lặng, công trình nghiên cứu khoa học.
6 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
- Tiểu thuyết Bến không chồng và bộ phim cùng tên thông qua vấn đề liên
văn bản, công trình nghiên cứu khoa học của Lê Thị Tuân (2011).
- Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn
tự sự) (2010) của Đỗ Thị Ngọc Điệp.
Và nhiều công trình khác nữa đã cho thấy việc nghiên cứu tác phẩm điện ảnh
trong tương quan với văn học được quan tâm rất mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nghiên cứu phim Rừng Nauy của đạo diễn Trần Anh Hùng trong
quan hệ với tiểu thuyết cùng tên của Haruki Murakami thì đến nay chưa có công
trình nào. Bởi bộ phim Rừng Nauy vừa mới ra mắt chưa được bao lâu nên chỉ
có những bài bình luận trên các báo và tạp chí, trên các trang web. Với đề tài
này, người viết muốn đưa ra một đóng góp nhỏ trong việc tìm hiểu tiểu thuyết
và bộ phim chuyển thể theo hướng tiếp cận nghệ thuật kể chuyện.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là tác phẩm điện ảnh Rừng Nauy của
đạo diễn Trần Anh Hùng và tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Haruki Murakami.
Trong đó, người viết tập trung ở phạm vi nghiên cứu những yếu tố trong nghệ
thuật kể chuyện: cốt truyện, kết cấu, người kể chuyện, điểm nhìn, nhân vật,
không gian thời gian, ngôn ngữ kể chuyện.
3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chính được sử dụng trong khoá luận:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp liên ngành.
4. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của khoá luận
Vận dụng lý thuyết trần thuật học trong văn học và trần thuật học trong điện
ảnh cùng việc khảo sát cuốn tiểu thuyết và tác phẩm điện ảnh chuyển thể, người
viết muốn phân tích nghệ thuật kể chuyện của mỗi loại hình từ một câu chuyện.
7 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
Từ đó, làm sáng tỏ được cách mà nhà văn và đạo diễn thể hiện câu chuyện như
thế nào bằng chính những đặc trưng của loại hình thông qua các yếu tố: cốt
truyện, kết cấu, người kể chuyện, điểm nhìn, nhân vật, không gian, ngôn ngữ kể
chuyện. Thực hiện được như vậy, khoá luận sẽ góp một phần nhỏ trong việc lý
giải lợi thế kể chuyện của mỗi loại hình điện ảnh và văn học.
5. Cấu trúc khoá luận
Khoá luận với đề tài “Nghệ thuật kể chuyện trong phim Rừng Nauy của Trần
Anh Hùng và tiểu thuyết cùng tên của Haruki Murakami”, ngoài phần mở đầu
và kết luận, khoá luận gồm có các 4 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương II: Cốt truyện và kết cấu
Chương III: Người kể chuyện, điểm nhìn, nhân vật
Chương IV: Không gian và ngôn ngữ kể chuyện
Cuối cùng là Tư liệu tham khảo.
8 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận.
Những vấn đề lý luận về nghệ thuật kể chuyện.
Nghệ thuật kể chuyện trong văn học.
Khi nghiên cứu phê bình tác phẩm văn học chúng ta không thể không nhắc
đến nghệ thuật kể chuyện hay còn gọi là nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật tự sự.
Đó là phương diện thi pháp quan trọng, là linh hồn, là cốt lõi của một tác phẩm,
đồng thời cũng là dụng công, tâm huyết của nhà văn khi sản sinh ra đứa con tinh
thần của mình. Khi chúng ta tiếp xúc với một tác phẩm văn học: truyện ngắn,
tiểu thuyết, kịch,… là chúng ta đang tiếp cận với một câu chuyện, người đọc cứ
dần dần đắm mình vào thế giới của câu chuyện đó. Để có một tác phẩm lay
động được tâm hồn của người đọc, mỗi nhà văn không chỉ sáng tạo ra một câu
chuyện cảm động mà còn là cách đưa câu chuyện đến với độc giả. Có thể thấy,
vấn đề nghệ thuật kể chuyện chiếm vị trí khá quan trọng trong việc tạo nên
thành công cho tác phẩm. Ngày nay, người ta không quá quan tâm đến nội dung
câu chuyện mà họ quan tâm nhiều hơn cả là cách nhà văn kể câu chuyện đó.
Khái niệm Narratology (tiếng Anh) Narratologie (tiếng Pháp) được dịch là
nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật tự sự. Đây là khái niệm
thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học. Nghệ
thuật kể chuyện hay nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật tự sự cũng đều là
phương thức tái hiện đời sống.
Khi bàn đến các phương tiện cơ bản của miêu tả tự sự, G.N.Pospelov trong
cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học xác định: “Đóng vai trò quyết định trong
loại văn học tự sự… là sự trần thuật học, tức là một câu chuyện về các sự kiện
xảy ra được kể từ phía người khác” [7; 66]. Bên cạnh đó, ông còn chỉ ra các
9 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
thành phần cơ bản của nghệ thuật kể chuyện: “Với sự trợ giúp của trần thuật,
miêu tả, bình luận, lời nói nhân vật trong các tác phẩm tự sự, cuộc sống được
nắm bắt một cách tự do và sâu rộng” [7; 68].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tự sự là một phương thức tái hiện đời
sống trong toàn bộ tính khách quan của nó, tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt
truyện, gắn với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ,
nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình, kịch” [15; 385].
Có thể nói, nghệ thuật kể chuyện có một vai trò hết sức quan trọng trong tác
phẩm văn học bởi thông qua cấu trúc trần thuật đó người đọc không chỉ biết
được điều nhà văn muốn nói mà còn biết cách nhà văn nói ra điều đó. Để làm
được điều đó một tác phẩm văn học cần có sự đóng góp của nhiều thành tố: vai
trò của người kể chuyện, sự chuyển đổi phương thức trần thuật, điểm nhìn trần
thuật, kết cấu, giọng điệu, không gian,thời gian,… Kết cấu trần thuật gắn liền
với sự phát triển của cốt truyện. Nhà văn đã sử dụng những thủ pháp, phương
thức này để mang câu chuyện đến với độc giả, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ
cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả.
Yếu tố đầu tiên làm nên thành công cho tác phẩm văn học chính là cốt
truyện (plot), có vai trò quan trọng bậc nhất không thể thiếu. Loại bỏ cốt
truyện, tác phẩm văn học sẽ chuyển sang một dạng văn bản khác. Cốt truyện là
toàn bộ những sự kiện mà nhà văn đã kể lại trong văn bản tự sự mà người đọc
có thể kể lại được. G.N.Pospelov trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học
cho rằng: “cốt truyện là tiến trình của các sự kiện” [7; 63]. Nhà nghiên cứu
V.B.Shklovsky cũng đề xuất cách hiểu: “cốt truyện là cách sắp xếp các sự kiện,
sự việc, tình tiết của chúng trong văn bản nghệ thuật” [24; 38]. Trong cuốn 150
thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng: “cốt truyện là sự phát triển hành
động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả
trong các tác phẩm trữ tình” [16; 112]. Tuy mỗi nhà nghiên cứu có những định
nghĩa khác nhau nhưng đều nhấn mạnh đến vai trò quan trọng không thể thiếu
của hệ thống sự kiện. Cốt truyện trong tác phẩm văn học đã giúp bộc lộ tính
10 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
cách nhân vật, thể hiện xung đột xã hội, và bộc lộ phong cách, tài năng của nhà
văn.
Vấn đề người kể chuyện cũng đóng vai trò không kém trong mỗi tác phẩm
văn học, đó là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại.
Tác giả không thể trần thuật nếu thiếu người kể chuyện. Theo Từ điển thuật
ngữ văn học thì : “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật
trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể với một nhân
vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả ( ví dụ “tôi”
trong “Đôi mắt” của Nam Cao ), dĩ nhiên không nên đồng nhất hoàn toàn với
tác giả ngoài đời ; đó có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra ( ví
dụ “Người điên” trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn ); cũng có thể là người
viết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể
chuyện. Hình tượng người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một
sự đánh giá, bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái
nhìn của tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống trong tác
phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh…” [ 15 ; 149 ].
Nhắc đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm không thể không nhắc đến những
đóng góp của kết cấu tác phẩm. Đó là cách sắp xếp, tổ chức để tạo nên hình
tượng nhân vật hay cốt truyện, là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm.
Trong cuốn Lý luận văn học đã có định nghĩa về kết cấu trong tác phẩm văn
học: “Kết cấu là thuật ngữ chỉ sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức
nghệ thuật trong tác phẩm, kết cấu gắn kết với các yếu tố của hình thức và phối
thuộc chúng với tư tưởng. Kết cấu khiến tác phẩm mạch lạc, có “vẻ duyên dáng
của trật tự”. Việc phân bố các sự kiện và hành động trong tác phẩm thuộc kết
cấu của cốt truyện, đó chính là sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ đề tư tưởng với
hành động tính cách. Nghĩa là nhà văn phải đặt tính cách vào những tình huống
nhất định, đó là những sự kiện có ý nghĩa thử thách đối với số phận, đối với
những đặc điểm bản chất của tính cách buộc phải hành động, phải phơi bày diễn
biến tâm lý của nó, phải bộc lộ thái độ tư tưởng, tình cảm của nó với các tính
11 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
cách khác” [10; 283]. Kết cấu của tác phẩm văn học như một cái khung được
xây dựng kiên cố để chống đỡ cho toà lâu đài nghệ thuật sáng tạo văn chương
này cũng như một ngôi nhà không có nền tảng tốt đẹp sẽ không thể được xây
dựng lên một cách vững bền. Mọi sự sắp xếp, tổ chức của các sự kiện, tình tiết,
biến cố của câu chuyện thuộc về kết cấu chính là những nỗ lực sáng tạo của nhà
văn.
Yếu tố không gian, thời gian cũng là một trong những mối quan tâm của
nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình trong việc tìm ra ý nghĩa của câu chuyện.
Không gian trong tác phẩm văn học, chịu sự chi phối một cách chủ quan của
người sáng tác hay người kể chuyện, đó là môi trường để nhân vật xuất hiện và
hoạt động. Nó thuộc về cấu trúc nội tại của tác phẩm, góp phần xây dựng hình
tượng trong tác phẩm văn học. Với tư cách là một “mã nghệ thuật”, không gian
được xem xét như một quan niệm về thế giới và con người, như một phương
thức chiếm lĩnh hiện thực đời sống một cách đặc thù, là một hình thức thể hiện
tư tưởng thẩm mĩ, tình cảm, cảm xúc của con người. Mỗi loại hình chiếm lĩnh
không gian bằng cách thức của riêng mình. Nhà văn sáng tạo không gian từ câu
chữ, từ cách kết cấu câu văn.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải về không gian
như sau: “Không gian là khoảng không bao la trùm lên tất cả sự vật hiện tượng
xung quanh đời sống con người” [12; 633]. Còn định nghĩa về không gian nghệ
thuật trong văn học, Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Không
gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính
chỉnh thể của nó” [15; 162]. Trần Đình Sử lí giải thêm: “không gian nghệ thuật
là hình thức tồn tại cùng thế giới nghệ thuật”. Ông còn khẳng định một cách hết
sức chắc chắn: “không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian,
không có một nhân vật nào không nào không có một nền cảnh nào đó”, và
“không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con
người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống”. Như vậy, không gian
nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Không
12 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học
Khoá luận tốt nghiệp khoá QH- 2007 -X
gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, “mang ý nghĩa biểu
tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần thuật bên trong tác phẩm văn học bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn, ta xác định được vị trí của chủ thể trong
không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, diễn ra trong một trường nhìn
nhất định.
Bên cạnh đó, thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để kể câu chuyện còn
có nhiều yếu tố khác như giọng điệu, ngôn ngữ,….
Qua đây, có thể thấy nghệ thuật kể chuyện là những thủ pháp, phương thức
mà nhà văn sử dụng để kể chuyện. Nó góp phần lớn trong việc xem xét đánh giá
nhân vật, sự kiện cũng như tái tạo câu chuyện. Mỗi yếu tố của nghệ thuật kể
chuyện đều có vai trò, ý nghĩa làm nên sức hấp dẫn khác nhau của nghệ thuật kể
chuyện, tạo nên sức hấp dẫn của câu chuyện với người đọc và phong cách sáng
tạo độc đáo của nhà văn.
Nghệ thuật kể chuyện trong điện ảnh.
Không phải loại hình nghệ thuật nào ra đời đã có thể đứng vững và phát triển
nhanh chóng. Với nghệ thuật điện ảnh cũng vậy ! Điện ảnh ra đời sau nhiều loại
hình nghệ thuật khác: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc, nghệ thuật biểu
diễn, văn học, được mệnh danh là nàng thơ thứ 10 đối với phương Tây và đứng
ở vị trí thứ bảy trong lâu đài nghệ thuật ở phương Đông. Nó đã kế thừa, hấp thụ
những tinh hoa, học hỏi kinh nghiệm của các bộ môn nghệ thuật khác làm nên
nét đặc trưng của bản thân mình. Đó là không gian trong kiến trúc, điểm nhìn
(point of view) của hội hoạ, văn học …
Đặc biệt với văn học, điện ảnh đã có mối quan hệ chặt chẽ, gần gũi “Giống
như kịch và tiểu thuyết, điện ảnh cũng phản ánh đời sống” [13; 39]. Tuy nhiên,
cách phản ánh hiện thực đời sống của điện ảnh không hoàn toàn giống với văn
học bởi trong quá trình phát triển điện ảnh cũng dần dần tích luỹ được những
thủ pháp nghệ thuật của mình, sáng tạo ra ngôn ngữ riêng của mình, “được liệt
kê vừa như thể loại trần thuật vừa như thể loại biểu diễn” [10; 6]
13 Nguyễn Thị Yến – K52 Văn học