Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

luận văn nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong sáng tác của nguyễn hữu nhàn
PREMIUM
Số trang
141
Kích thước
910.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1394

luận văn nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong sáng tác của nguyễn hữu nhàn

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nông thôn - nông nghiệp - nông dân hiện đang được nhà nước dành

nhiều sự quan tâm đặc biệt. Nhiều chính sách của Đảng và chính phủ nhằm

thúc đẩy sự phát triển nông thôn đã ra đời. Đời sống vật chất cũng như tinh

thần của người nông dân đang từng bước được nâng lên. Nhiều lễ hội văn hóa

truyền thống ở nông thôn đang được khôi phục và bảo tồn. Bản thân Chủ tịch

nước Trương Tấn Sang trong lễ khai xuân dâng hương đầu năm mới 2012

cũng đã xắn quần, xuống đồng cày ruộng trên cánh đồng Đọi Sơn (Hà Nam).

Văn học là sự phản ánh, văn học quan tâm đến hiện thực xã hội, tất yếu đề

cập đến nông thôn và nông dân. Bởi thế, từ xưa đến nay, nông nghiệp - nông

thôn - nông dân luôn là đề tài lớn của văn học. Nó còn là cái nôi văn hoá dân

tộc, nơi nuôi dưỡng, giữ gìn tất cả những cái đẹp nhất, hồn cốt nhất của dân

tộc Việt Nam. Trân trọng văn hóa nông thôn chính là tiêu chí đã được các nhà

văn coi trọng khi viết về mảng đề tài này. Vì lẽ đó nhiều năm qua, hai mảng

đề tài làm nên thành tựu lớn nhất của văn học Việt Nam là mảng đề tài viết về

chiến tranh và về nông thôn - nông nghiệp - nông dân. Mới đây, Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ

chức trao thưởng cho các tác phẩm văn học nghệ thuật sáng tác về đề tài nông

thôn. Về mục đích của việc trao thưởng và phát động sáng tác về đề tài xây

dựng nông thôn mới, ông Cao Đức Phát – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn cho biết: “Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn của

Chính phủ. Mục tiêu chính là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người

dân. Vì thế, bên cạnh việc xây dựng những dòng sông, cánh đồng, chuồng trại

thì còn cần phải xây dựng đời sống văn hóa cho bà con nông dân. Chúng tôi

muốn thông qua việc trao thưởng này để phát động một chặng đường sáng

2

tác mới. Những sáng tác văn học nghệ thuật là món quà vô giá để động viên

bà con nông dân, toàn xã hội tham gia vào xây dựng đời sống nông thôn mới

” [25].

1.2. Trong số những nhà văn được trao thưởng trong cuộc phát động

sáng tác về đề tài xây dựng nông thôn mới lần này, bên cạnh các nhà văn như

Ngô Ngọc Bội, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Ngọc Tư, còn có một nhà

văn quen thuộc của vùng quê trung du miền núi Bắc bộ đó là nhà văn Nguyễn

Hữu Nhàn. Ông được trao giải cho tập truyện ngắn chọn lọc viết về nông thôn

trong thời kỳ đô thị hóa. Cùng với sự hiểu biết, tình yêu với vùng đất và con

người, cộng với tài năng sáng tạo, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn trong suốt quá

trình sáng tác của mình chỉ chung thủy với một đề tài duy nhất : Đề tài nông

thôn. Bạn đọc cả nước biết đến nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn với một lối viết

không thể lẫn với bất cứ ai về làng quê, người quê. Nguyễn Hữu Nhàn không

đi vào những mặt trái của làng quê trong quá trình phát triển, hoặc phê phán

chống tiêu cực,… mà bằng một cách thật tự nhiên, nhất quán, ông chuyên chú

đi vào các tầng văn hoá của làng quê thời hiện đại. Qua những sáng tác của

ông, ta thấy Nguyễn Hữu Nhàn tập trung khai triển mấy chủ đề chính sau:

“Thứ nhất, ông phô diễn một cách thích thú các phong tục của các tộc người,

hoặc của không gian địa - văn hóa bằng vốn liếng kiến thức dân tộc học, văn

hóa học khá phong phú. Thứ hai, tôn vinh những giá trị tâm hồn và văn hóa

đích thực của làng quê và người quê. Thứ ba, thể hiện sự tha hóa của văn hóa

làng quê trước sự xâm lăng của đô thị, kinh tế thị trường” [4, tr.9].

Nông thôn Việt Nam đang có những chuyển biến rõ rệt, đời sống văn

chương mặc dù bộn bề với những mảng đề tài phong phú khác nhau của đời

sống hiện thực song cũng đang từng ngày từng giờ bám sát vào những thay

đổi của bộ mặt nông thôn thời đại mới. Trong không nhiều nhà văn mặn mà

với mảng đề tài này ta phải kể đến đóng góp có ý nghĩa lớn lao của nhà văn

3

tài năng và tâm huyết Nguyễn Hữu Nhàn. Vì lẽ đó, việc tìm hiểu đề tài nông

thôn của cây bút này là một công việc có ý nghĩa thực tiễn cao, vừa phù hợp

với chủ trương chung của Đảng của Chính phủ, vừa góp phần cổ vũ nhà văn

tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa cho việc sáng tác về đề tài nông thôn và

cũng là để bổ sung kịp thời cho công tác nghiên cứu, phê bình văn học hiện

nay một phong cách sáng tác truyện mang đậm dấu ấn nông thôn trung du

miền núi Bắc bộ.

1.3. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo về những

đóng góp cũng như sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn về đề tài

nông thôn cho tới nay chưa có nhiều. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi,

chưa có luận văn thạc sĩ nào nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác cũng như

những tác phẩm của Nguyễn Hữu Nhàn. Hiện nay chỉ có một số bài báo, bài

nghiên cứu, phê bình về tác giả, tác phẩm của Nguyễn Hữu Nhàn của các nhà

nghiên cứu có uy tín như PGS.TS Phan Trọng Thưởng, nhà lí luận phê bình

Văn Giá, nhà báo Vũ Hà …Từ những lí do cụ thể ở trên đã thôi thúc chúng tôi

lựa chọn đề tài: “Đề tài nông thôn trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Hữu

Nhàn”, nhằm tập trung vào làm sáng tỏ sự cảm nhận , phản ánh của nhà văn

về cuộc sống của người nông dân, vấn đề sản xuất nông nghiệp và văn hóa

nông thôn trong thời đại mới. Đây là những vấn đề đang được cả xã hội quan

tâm và qua những sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn đều được thể hiện một

cách rõ nét.

2. Lịch sử vấn đề

Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn được nhiều nhà nghiên cứu phê bình đánh

giá là “nhà văn của làng quê”, bởi ngay từ khi mới cầm bút, chập chững bước

vào nghề viết văn và cho đến tận bây giờ (có lẽ sau này vẫn thế), khi đã trở

thành lão làng trong Hội nhà văn Việt Nam, có trong tay hơn chục đầu sách

có giá trị, ông luôn chỉ chú trọng đặc biệt vào một đề tài với một niềm đam

4

mê không thể khác là chỉ viết về đề tài nông thôn, về cuộc sống hàng ngày

của người nông dân ngay trên chính mảnh đất của họ. Tác giả Lê Phan Nghị

trong bài báo “Nhà văn của đồng quê” đăng trên tuần báo Văn nghệ đã khẳng

định: “ Trong suốt cả chặng đường văn chương của mình – Nguyễn Hữu

Nhàn đã lặn lội, ki cóp để phần lớn các tác phẩm của ông đều sống động

những hình ảnh về người nông dân, hình ảnh về hoạt động nông nghiệp, nông

thôn ” [19, tr.7].

Là nhà văn luôn chỉ chú trọng đặc biệt vào đề tài nông thôn, về cuộc

sống hàng ngày của người nông dân, tiểu thuyết tiêu biểu đầu tay “Dốc nắng”

ra đời đã minh chứng cho những ấp ủ ấy của Nguyễn Hữu Nhàn. Tác giả Lê

Quang Trang đã nhận định: “ Trong Dốc nắng, người đọc có thể nhận ra sự

hiểu biết về nông thôn của tác giả khá giàu có và tỉ mỉ. Quan niệm về một

nông thôn mới trong hướng đi sắp tới cũng như các chuyện hằng ngày giữa

những người nông dân đã hiện lên qua nhiều trang viết khá lý thú của Nguyễn

Hữu Nhàn ” [27, tr.5].

Theo tác giả Trần Thế Tuấn “ Sau tiểu thuyết Dốc nắng , Làng Cói Hạ -

cuốn tiểu thuyết vừa ra đời đánh dấu bước phát triển mới của một nhà văn

vốn sở trường về đề tài nông thôn” [23, tr.7]. Bám sát những đổi thay của xã

hội, cuộc sống nông thôn Việt Nam sau đổi mới có nhiều chuyển biến, tích

cực có, tiêu cực có. Nguyễn Hữu Nhàn đã nhìn thấy được tất cả những mặt đó

và ông đã thể hiện một cách khá rõ nét trong tiểu thuyết Làng Cói Hạ. Chuyện

xảy ra ở một làng quê vùng trung du Bắc bộ. Đó là hậu quả của sự nôn nóng

ngộ nhận về sở hữu tập thể hình thức, dẫn đến tình trạng người lao động vất

vả một nắng hai sương, nhưng có làm mà không có ăn. Tác phẩm ra đời cho

thấy sự trưởng thành của nhà văn khi viết về đề tài nông thôn sau đổi mới

“chúng ta có quyền hy vọng đón đợi những tác phẩm khác tương xứng ở độ

chín của tác giả” [23, tr.7].

5

Sinh ra và được sống giữa một vùng trầm tích văn hóa cổ xưa và đậm

đặc vào loại bậc nhất trong cả nước, điều đó đã giúp cho nhà văn Nguyễn

Hữu Nhàn có điều kiện khảo cứu những nét văn hóa của làng quê mình và

khéo léo đưa những đặc trưng văn hóa truyền thống ấy vào trong những tác

phẩm văn học. Trong bài “Chuyện nhà văn làm khảo cứu và nhà khảo cứu

làm văn học”, PGS – TS Phan Trọng Thưởng đã chỉ ra được sự kết hợp hài

hòa hai yếu tố giữa nhà khảo cứu văn hóa và nhà sáng tác văn học trong một

nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn “ Với những thành tựu đã có, Nguyễn Hữu Nhàn

đang nỗ lực để đạt được hai trong một ( nhà khảo cứu trong nhà văn hay nhà

văn hóa trong nhà văn )” [26, tr.9].

Ra đời ngay sau tiểu thuyết “Làng Cói Hạ”, tiểu thuyết “Chớm nắng”

đúng thật như nhận định trên đây về Nguyễn Hữu Nhàn “nhà văn làm khảo

cứu và nhà khảo cứu làm văn học”. Đánh giá về tiểu thuyết này tác giả Đặng

Văn trong bài viết “Vài nét về văn hóa làng qua tiểu thuyết Chớm nắng” viết

“ Vấn đề trọng tâm của cuốn tiểu thuyết “Chớm nắng” đặt ra là VĂN HÓA

LÀNG”, “Cái được của tác phẩm là tác giả thông qua việc tập dượt chuẩn bị

cho lễ hội “trò Táu” một thứ lễ hội cổ truyền đã gần như bị mai một – và chỉ

khuôn lại trong phạm vi một làng đã làm cho người đọc hiểu thế nào là văn

hóa đích thực, cái gì là tinh hoa cần phát huy, cái gì là nhảm nhí, lỗi thời nên

bài trừ, củng cố niềm tin cho nhân dân, khơi dậy từ tâm hồn họ những giá trị

tinh thần, làm giàu lòng nhân ái, xóa bỏ hận thù, sống với nhau có tình, có

nghĩa và có trách nhiệm” [29, tr.6]. Thông qua bức tranh khái quát về chính

nơi tác giả đã sinh sống – Làng Đinh Xá, người đọc nhận ra được “làng Đinh

Xá là bức tranh khái quát của làng quê Việt Nam với đầy đủ những biểu hiện

sinh động của nền văn hóa bản địa”. Với phương pháp điển hình hóa thông

qua hàng loạt số phận các nhân vật, tiểu thuyết “Chớm nắng” cho thấy sự

hiểu biết của tác giả về “những tầng văn hóa, những dấu ấn lịch sử và cả

6

nhân tình thế thái trong mối quan hệ đa chiều mang tính đặc thù của làng quê

Việt Nam xưa và nay ” [29, tr.6].

Đúng như PGS – TS Phan Trọng Thưởng đã viết “ Nhà văn không chọn

được nơi sinh nhưng lại có thể chọn cho mình nơi sống và gắn bó. Mỗi nhà

văn thường có một vùng đất, một miền quê, một địa bàn của mình” [26, tr.9].

Tại “miền quê” của mình mỗi nhà văn tìm ra được rất nhiều điều để viết.

Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn cũng vậy. Trong một bài viết trên báo Văn Nghệ,

nhà lí luận phê bình Văn Giá đã chỉ ra đặc điểm nổi bật qua những sáng tác

của Nguyễn Hữu Nhàn “ Nguyễn Hữu Nhàn không đi vào những vấn đề tố

khổ, hoặc phê phán chống tiêu cực, hoặc làm ăn chuyển đổi kinh tế…mà bằng

một cách thật tự nhiên, nhất quán, ông chuyên chú đi vào các vỉa tầng văn

hóa của làng quê thời hiện đại ” [4, tr.9]. Sinh ra, trưởng thành và phần lớn

những năm tháng cuộc đời sống gắn bó với làng quê nên Nguyễn Hữu Nhàn

hiểu về người nông dân, về cuộc sống nông thôn đến “chân tơ kẽ tóc”: “ Nhà

văn của đồng ruộng này rất giỏi khi chỉ ra tâm tính, thói tật của người nhà

quê. Đó là tính gia trưởng hách dịch, thói lắm mồm hay chửi, thói quen sống

tùy tiện, bệ rạc, tính hiếu thắng, căn bệnh sĩ diện rởm, tính keo bẩn hà

tiện…Thôi thì bao nhiêu tật xấu của con người, ở nhà quê đều có cả. Nhà văn

cũng trình bày những âu lo về tình trạng suy thoái nghiêm trọng của tâm tính

con người, rộng ra là của văn hóa làng quê.” [4, tr.9].

Cái gốc cuộc sống con người Việt Nam ta chính là nông thôn, là những

người nông dân. Bao nhiêu nét đẹp văn hóa truyền thống cũng bắt đầu từ cái

gốc rễ này. Ăn đời ở kiếp nơi vùng nông thôn trung du miền núi Bắc Bộ,

Nguyễn Hữu Nhàn qua những trang viết của mình đã viết rất thật về con

người nông thôn. Qua việc đọc hai truyện ngắn : “Làng quê yên ả và Người

quê” của Nguyễn Hữu Nhàn”, tác giả Nguyễn Văn Chỉ đã nhận định: “ Tác

giả đã ca ngợi những người nông dân ở một vùng quê thuần hậu có nhiều đức

7

tính tốt: mộc mạc, chất phác mà đậm đà tình nghĩa thủy chung.” [1, tr.9]. Tuy

nhiên, mối quan hệ trong cuộc sống của con người không chỉ tồn tại đơn lẻ,

mà cuộc sống bộn bề hàng ngày lại luôn luôn cuộn chảy. Ý thức sâu sắc được

điều đó, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn qua hai truyện ngắn này đã cho thấy

được cái nhìn nhiều chiều trong khi thể hiện bản tính của người nông dân.

Trong truyện ngắn “Người quê”, dưới con mắt bà Tú thì ông Vũ là một nông

dân cục mịch, quê kệch, bẩn thỉu và không lịch sự chút nào. Ngược lại, ông

Thanh (chồng bà Tú) rất quý ông Vũ: “Vũ tuy ít học, nhưng ngay thật, thẳng

thắn, trọng tình hơn trọng của”. Mối quan hệ nhiều chiều cũng như những

tình cảm tốt đẹp đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt qua

truyện ngắn “Làng quê yên ả”: “Cốt lõi là tình đoàn kết: tình làng nghĩa xóm,

tình cảm họ hàng, tình cảm gia đình yêu thương đầm ấm, hòa thuận. Mỗi khi

có công to việc lớn, lúc vui lúc buồn họ đều quây quần giúp đỡ, chia sẻ lẫn

nhau như lá lành đùm lá rách. Đoàn kết là sức mạnh đã trở thành truyền

thống cực kì quý báu của nhân dân ta, nên đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn,

thử thách để xây dựng gia đình hạnh phúc, làng quê đẹp giàu” [1, tr.9].

Cũng như nhiều tác giả khác, tác giả Vũ Hà trong bài viết “Nguyễn Hữu

Nhàn – Nhà văn của nhà quê ” cũng đã có những nhận định rất xác đáng về

Nguyễn Hữu Nhàn cũng như các tác phẩm của ông “ một cây bút chuyên viết

chuyện nông thôn và người nông dân ”, khi đọc những tác phẩm của Nguyễn

Hữu Nhàn, người đọc nhận ra “ trước hết là không khí “rất quê” đang diễn

ra hiện nay ở nông thôn vùng Trung du, xứ Bắc. Cái không khí ấy được tạo

dựng bởi những con người chân quê, thô tháp, tủn mủn đang phải đương đầu

với cái đói cái nghèo cùng những thói quen, tập tục lạc hậu từ xưa để lại,

những cá tính “truyền thống” còn “di căn” đến tận hôm nay ” [5, tr.19].

Là nhà văn chuyên chú trọng vào đề tài nông thôn vùng trung du miền

núi Bắc Bộ, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã thành công trong chính đề tài yêu

8

thích đó của mình. Có được những thành công đó bản thân nhà văn đã khẳng

định “Tôi cố thủ trong pháo đài làng xã!” . Trong bài phỏng vấn của hai nhà

báo Đinh Hằng – Nam Hải, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã cho thấy quan

niệm hết sức nhất quán của bản thân về văn hóa làng xã, về cuộc sống nông

thôn giống như những gì mà ông đã thể hiện trong các sáng tác của mình.

Ông quan niệm cần giữ gìn truyền thống văn hóa làng như giữ gìn sự sống

còn vận mạng của dân tộc “Văn hóa làng xã là một pháo đài suốt nhiều nghìn

năm của đất Việt. Sở dĩ quá trình đồng hóa của phương Bắc thất bại vì vướng

phải pháo đài này, cha ông ta giữ được độc lập hay không cũng bởi sự bền

vững hay suy vong của nền văn hóa ” [7, tr.8-9]. Nhà văn khẳng định những

phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng chính là cơ sở quan trọng để duy trì truyền

thống văn hóa làng xã, văn hóa dân tộc “Ở những làng cổ giàu truyền thống

văn hiến, văn hóa, ta thấy rất rõ nhiều giá trị truyền thống được trưng cất lên

bởi các phong tục lễ nghi, thuần phong mỹ tục…Nếu không có tín ngưỡng

cộng đồng, tín ngưỡng gia tiên, không thờ người có công với làng xã…và

nhiều tục lệ khác thì ta đâu có được truyền thống “uống ước nhớ nguồn, ăn

quả nhớ kẻ trồng cây”” [7, tr.8-9]. Mặc dù đất nước ta đang trên con đường

công nghiệp hóa – hiện đại hóa , gia nhập WTO nhưng không phải thứ gì

cũng có thể tùy tiện “ áp vào nền văn minh lúa nước ”, “ văn hóa làng chỉ có

một, nếu bị phá hỏng thì mất vĩnh viễn”. Vì vậy, theo nhà văn “ phải lấy văn

hóa làng làm thế mạnh, làm bệ phóng cho Việt Nam trước thời cuộc mới!

Đừng đi giày Tây mà lội ruộng!”. Những quan niệm trên đây của Nguyễn

Hữu Nhàn phải chăng cũng là lời khẳng định sẽ không thay đổi vùng đề tài

sáng tác cho những chặng đường làm nghệ thuật sau này của nhà văn.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu của luận văn là: “ Đề tài nông thôn trong sáng tác của

Nguyễn Hữu Nhàn ” và như trên đã trình bày, toàn bộ sự nghiệp sáng tác của

9

nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn chỉ chung thủy với một đề tài duy nhất là đề tài

nông thôn, do đó, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi nằm trong phạm vi tất

cả các sáng tác của nhà văn có liên quan đến đề tài này gồm các tác phẩm ở

các thể loại dưới đây:

* Tiểu thuyết:

- Dốc nắng (1984)

- Làng Cói Hạ (1989)

- Không cô đơn (1993)

- Chớm nắng (2000)

- Rừng cười (2008)

* Các tập truyện ngắn:

- Chuyện làng Gành (1975)

- Truyện kể trong làng (1994)

- Phố làng (1999)

- Người quê (2005)

- Tết ở Bản Dèo (2006)

- Gió thổi qua rừng (2007)

- Vui như hội (2009)

- Nguyễn Hữu Nhàn - Tác phẩm chọn lọc - Tuyển (2009)

* Công trình nghiên cứu về văn hóa:

- Nghiên cứu văn hóa làng Vĩnh Phúc.

- Nghiên cứu văn hóa làng Phú Thọ - Giải B Hội Văn nghệ Dân gian Việt

Nam (phối hợp cùng Nguyễn Khắc Xương).

- Nghiên cứu mối liên hệ văn hóa Việt Mường - Giải C Hội Văn nghệ

Dân gian Việt Nam (phối hợp với Nguyễn Khắc Xương).

- Nghiên cứu văn hóa người Dao ở Phú Thọ (phối hợp với Phạm Thị

Nga).

10

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình khảo sát, triển khai thực hiện luận văn chúng tôi sử dụng

phối hợp đồng bộ những phương pháp sau:

4.1. Phương pháp thống kê - phân loại: Bằng phương pháp thống kê,

phân loại, chúng tôi đã tiến hành thống kê, phân loại về một số phương diện

như hình tượng nhân vật, hình ảnh, chi tiết, ngôn ngữ, giọng điệu… Tất cả

các yếu tố đó biểu hiện cụ thể trong từng tác phẩm ở mỗi giai đoạn, thời kì

sáng tác. Từ đó tìm ra được những đặc sắc riêng của Nguyễn Hữu Nhàn khi

viết về đề tài nông thôn. Việc thống kê, phân loại còn cung cấp những số liệu

quan trọng, hỗ trợ cho việc rút ra những kết luận, đồng thời là cơ sở để so

sánh, đối chiếu.

4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu: Trong quá trình tiến hành nghiên

cứu những tác phẩm viết về đề tài nông thôn của Nguyễn Hữu Nhàn chúng tôi

có đối sánh với các tác phẩm viết về đề tài nông thôn của các nhà văn khác

cùng thời. Từ đó giúp chúng tôi có được cái nhìn tổng thể, rõ nét nhất và đi

tới những nhận định chung nhất về thành công và hạn chế của Nguyễn Hữu

Nhàn khi viết về đề tài này.

4.3. Phương pháp phân tích: Chúng tôi tiến hành phân tích lần lượt từ

bức tranh hiện thực đến thế giới nhân vật ở cả bình diện nội dung và hình thức

nghệ thuật từ đó tạo ra cái nhìn toàn diện về các phương diện nội dung và

nghệ thuật về đề tài nông thôn trong những sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn.

4.4. Phương pháp hệ thống: Với phương pháp này, chúng tôi coi toàn

bộ tác phẩm là một chỉnh thể, có nhiều phương diện, yếu tố và cấp độ yếu tố,

như quan niệm nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật, kết cấu, trần thuật… Mỗi

một yếu tố lại bao gồm các cấp độ nhỏ hơn. Chẳng hạn, trần thuật trong văn

bản bao gồm giọng điệu, ngôn từ… Đồng thời, nhìn thấy mối liên hệ giữa các

yếu tố, đặc điểm trong chỉnh thể nghệ thuật.

11

Các phương pháp trên được vận dụng phối hợp, linh hoạt để có được

một cái nhìn tương đối bao quát về cách thể hiện đề tài nông thôn với những

biểu hiện rất riêng của Nguyễn Hữu Nhàn, cũng như khả năng đáp ứng nhu

cầu phản ánh những vấn đề hiện thực mang tính thời sự trong dòng chảy của

hệ thống đề tài đương đại.

5. Đóng góp của luận văn

Từ thực tế nghiên cứu, luận văn bước đầu chỉ ra được đặc điểm cơ bản

về đề tài nông thôn thông qua những sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn, bên

cạnh đó tìm ra được những độc đáo, đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện đề tài

nông thôn của nhà văn.

Việc khảo sát và nghiên cứu đề tài nông thôn trong truyện Nguyễn Hữu

Nhàn chưa nhiều, chưa có hệ thống cũng như chưa có một công trình nghiên

cứu hoàn chỉnh nào ra đời. Do đó, chúng tôi cố gắng bổ sung thêm một số

nhận định có ý nghĩa khoa học bên cạnh những ý kiến đã có về vấn đề này.

Thực hiện luận văn, chúng tôi không mong muốn gì hơn là đóng góp một chút

công sức của mình vào công tác nghiên cứu, phê bình Văn học Việt Nam hiện

đại và về sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính

của luận văn được triển khai thành ba chương:

Chương I: Đề tài và đề tài nông thôn trong văn học.

Chương II: Hiện thực nông thôn trong sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn.

Chương III: Nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong sáng tác của

Nguyễn Hữu Nhàn .

12

NỘI DUNG

CHƯƠNG I - ĐỀ TÀI VÀ ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC

1.1. Khái niệm đề tài

Đề tài là vấn đề lí luận có quan hệ mật thiết tới việc nghiên cứu và sáng

tác văn học, phản ánh tài năng, sở trường, phong cách và thế giới quan của

nhà văn trong việc phản ánh hiện thực. Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà

văn chọn lựa, miêu tả và thể hiện, tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng

trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà

mình quan tâm. Đề tài là thuật ngữ gắn liền với nội dung tác phẩm, là vấn đề

có ý nghĩa nền móng làm nên tác phẩm văn học. Có thể nói, đề tài là khái

niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác phẩm và

bản thân đời sống.

Một đề tài thích hợp là khâu yếu thứ nhất của toàn bộ công việc xây

dựng tác phẩm thành một chỉnh thể thẩm mỹ. M.Gorki đã có định nghĩa rất

xác đáng về đề tài: Đề tài là tư tưởng nảy sinh trong kinh nghiệm của tác giả,

do cuộc sống gợi ra.

Khái niệm đề tài cũng đã được đề cập đến trong nhiều sách lí luận văn

học.

Theo cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” đề tài là khái niệm “chỉ loại

các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn

học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” [6, tr.110].

Cũng theo cuốn từ điển này thì “cần phân biệt đề tài với tư cách là phương

diện khách quan của nội dung tác phẩm với đối tượng nhận thức, chất liệu

đời sống hay nguyên mẫu thực tế của sáng tác văn học. Lẫn lộn hai mặt này

sẽ dẫn tới tình trạng biến việc phân tích tác phẩm thành phân tích đối tượng

được miêu tả. Đối tượng nhận thức, miêu tả của sáng tác văn học là cái còn

13

nằm ngoài tác phẩm, đối diện với tác phẩm. Đề tài của tác phẩm là một

phương diện trong nội dung của nó, là đối tượng đã được nhận thức, lựa

chọn gắn liền với dụng ý, thế giới quan, lập trường tư tưởng, quan điểm thẩm

mỹ của nhà văn” [6, tr.111-112].

Trong cuốn “Lí luận văn học” do tác giả Phương Lựu chủ biên đưa ra

khái niệm đề tài: “thể hiện phương diện khách quan của nội dung tác phẩm

văn học (…) tác phẩm văn học bao giờ cũng xuyên qua một phạm vi miêu tả

trực tiếp trong tác phẩm để khái quát lên một phạm vi hiện thực đời sống nhất

định có ý nghĩa sâu rộng hơn” [9, tr.259].

Cùng quan niệm như trên, sách “Lí luận văn học” do tác giả Trần Đình

Sử chủ biên cho rằng “Thực chất đề tài là một khái niệm về loại của hiện

tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu loại hiện tượng đời sống, có bấy

nhiêu đề tài” [21, tr.194].

Có thể nói, phạm vi hiện thực mà nhà văn tâm huyết nhất trong tác phẩm

của mình, đó là những yếu tố mở đường cho thành công sáng tạo, không lựa

chọn được phạm vi hiện thực, nhà văn không thể thực hiện thành công quá

trình sáng tạo. Do đó, đề tài là phạm vi hiện thực được nhà văn phản ánh

trong tác phẩm là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm thể hiện thế

giới quan của nhà văn, là đối tượng đã được nhận thức, kết quả lựa chọn và tư

duy của nhà văn. Đó là sự khái quát phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống được

phản ánh trong tác phẩm, phản ánh tài năng, vốn sống, tâm huyết của người

cầm bút trong cuộc đời làm nghệ thuật.

1.2. Đặc điểm chung của đề tài

Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài mà có rất

nhiều đề tài liên quan đến nhau, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống

đề tài. Chẳng hạn, Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa có đề tài về tình yêu, về

hạnh phúc lứa đôi, về quan lại “mặt sắt đen sì”, về nông dân khởi nghĩa, về

14

cuộc đời của các cô gái lầu xanh..., các đề tài đó gắn bó chặt chẽ với số phận

bi thảm của nàng Kiều. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về

cuộc sống bi thảm của người nông dân còn có các đề tài về cuộc sống của bọn

quan lại tham lam, ích kỉ, về cuộc đời của các em bé nghèo khổ... Như vậy, đề

tài có thể tồn tại ở nhiều cấp độ, thực chất đề tài là một khái niệm về loại của

hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu loại hiện tượng đời sống, có

bấy nhiêu đề tài . Cho nên, có đề tài về người nông dân bị lưu manh hóa (Chí

Phèo – Nam Cao), có đề tài về người công nhân bị bần cùng hóa (Lầm than –

Lan Khai), có đề tài về cuộc sống bế tắc của người trí thức nghèo trước cách

mạng (Sống mòn – Nam Cao)… phản ánh các bình diện khác nhau trong cuộc

sống. Khi nói đến đề tài của một tác phẩm hoặc của văn học nói chung, thực

chất không phải chỉ nói một đề tài mà là cả một hệ thống đề tài liên quan

nhau, bổ sung cho nhau tạo thành đề tài của tác phẩm.

Phạm vi phản ánh của đề tài có thể được xác định rộng hẹp khác nhau ở

biên độ của nó. Đó có thể là một “giới hạn bề ngoài” hoặc “phương diện bên

trong của đề tài”. Các hiện tượng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại

theo mối liên hệ bề ngoài hoặc theo mối liên hệ bên trong giữa chúng.

Theo giới hạn bề ngoài của phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác

phẩm có thể xác định các đề tài văn học như: đề tài thiên nhiên (Tràng giang

– Huy Cận), đề tài loài vật (Dế mèn phiêu lưu ký – Tô Hoài), đề tài sản xuất

(Cái sân gạch – Đào Vũ), đề tài chiến đấu (Xung kích – Nguyễn Đình

Thi)…Ở đây, các phạm trù xã hội, lịch sử giữ vai trò quan trọng, vì thế người

ta có thể xác định các đề tài như: đề tài nông thôn, thành thị, công nhân, nông

dân, bộ đội, trí thức…

Cũng có thể xác định đề tài văn học theo giới hạn bên trong của phạm vi

hiện thực được phản ánh trong tác phẩm. Đó là cuộc sống nào, con người nào

được miêu tả trong tác phẩm. Nhiều khi đề tài gắn liền với một hiện tượng xã

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!