Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kinh tế biển đảo nam trung bộ dưới triều nguyễn (1802-1884)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
KINH TẾ BIỂN ĐẢO NAM TRUNG BỘ DƯỚI
TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60.22.03.13
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Đà Nẵng - Năm 2019
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN DUY PHƯƠNG
Phản biện 1:
PGS.TS .NGUYỄN VĂN ĐĂNG
Phản biện 2:
PGS.TS. NGÔ VĂN HÀ
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ Lịch sử Việt Nam họp tại Đại học Sư phạm
vào ngày 04 tháng 08 năm 2019
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN
- Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm- ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt
Nam sở hữu một lãnh thổ thống nhất và rộng lớn. Trong suốt quá trình
tồn tại, các vua triều Nguyễn đều nhận thức được vai trò của biển đảo
đối với sự tồn tại của triều đại và an ninh quốc gia trước sự dòm ngó từ
bên ngoài. Đây là một trong những yếu tố tác động đến ý thức hướng
biển và chủ trương tăng cường phòng thủ biển, đảo của triều Nguyễn.
Từ những kinh nghiệm trong quá khứ, chính sách của triều Nguyễn
trong việc khai thác, phát triển kinh tế biển đảo đã trở thành bài học
kinh nghiệm quý báu cho các thế mai sau.
Do đặc điểm tự nhiên vùng Nam Trung Bộ là khu vực có lợi thế
nhất về kinh tế biển đảo cả về vị trí địa lý, lẫn sự giàu có, phong phú về
tài nguyên. Các vua Nguyễn kế tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn
cũng đã nhận thức đúng đắn vai trò của biển đảo, nhờ đó trong suốt thế
kỉ XIX, kinh tế biển đảo khu vực Nam Trung bộ tiếp tục phát triển với
nhiều hoạt động phong phú, đa dạng. Sự liên tục trong khai thác biển
đảo của cha ông thế kỉ XIX không chỉ thể hiện sự hiện diện thường
xuyên của Việt Nam trên vùng biển Đông mà còn góp phần bảo vệ an
ninh chủ quyền quốc gia.
Bước sang TK XXI “thế kỉ của biển và đại dương”, việc vươn ra
biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn, phù hợp. Vì vậy Đảng,
Nhà nước ta luôn xác định biển đảo là nghành kinh tế mũi nhọn đem lại
nhiều nguồn lợi góp phần phát triển đất nước, đó là một lợi thế lớn,
chúng ta cần tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, tăng cường
hơn nữa kinh tế biển với chiến lược toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm,
sớm đưa nước ta thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu
vực, gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh và hợp tác quốc tế.
Như vậy, nghiên cứu kinh tế biển đảo Nam Trung Bộ dưới triều
2
Nguyễn (1802-1884) sẽ giúp chúng ta tìm hiểu một cách đầy đủ và toàn
diện hơn về tiềm năng, cách thức và tình hình khai thác biển đảo, từ đó
rút ra bài học kinh nghiệm cho việc phát triển các nghành kinh tế biển
hiện nay, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
cũng như trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ
Quốc. Vì những lí do trên, việc nghiên cứu đề tài “Kinh tế biển đảo Nam
Trung bộ dưới triều Nguyễn (1802-1884)” có nhiều ý nghĩa khoa học và
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến đề tài “ kinh tế biển đảo Nam Trung bộ dưới triều
Nguyễn (1802-1884)” đã có một số công trình đề cập tới ở những khía
cạnh và mức độ khác nhau như :Tác phẩm Ngư nghiệp Việt Nam nửa
đầu TK XX của Nguyễn Quang Trung Tiến NXB Thuận Hóa (1995) đã
đề cập đến hoạt động kinh tế biển trong đó tác giả chú trọng đến hoạt
động khai thác và đánh bắt của ngư dân, hoạt động ngư nghiệp ở từng
địa phương nhưng vùng Nam Trung bộ chỉ mới được điểm qua không
phải là đối tượng nghiên cứu chính của đề tài và tác phẩm mới chỉ đề
cập tới giai đoạn nửa đầu TK XX mà chưa khái quát được giai đoạn
trước đó.
Năm 2002 tác phẩm “Tư liệu về hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam” do Nguyễn Quang Ngọc chủ biên đã cung cấp
nhiều tư liệu về bản đồ, thư tịch cổ trong nước và phương Tây.Cũng
trong mảng đề tài biển đảo này tác giả Nguyễn Quang Ngọc cho ra mắt
cuốn “Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa tư liệu và sự
thật lịch sử” (2017). Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu rất
quý vừa cung cấp tư liệu, vừa phân tích tính pháp lý về chủ quyền của
Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa, từ đó giúp chúng ta
hiểu hơn cách thức mà các triều đại phong kiến trước triều Nguyễn khai
thác và thực thi chủ quyền biển đảo.
Cuốn Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều
3
Nguyễn thời kì 1802-1885, do PGS.TS Đỗ Bang chủ biên xuất bản năm
2016. Cuốn sách đã tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian nhà
Nguyễn nắm chủ quyền đất nước và phát huy sức mạnh chiến đấu bảo
vệ vùng biển đảo với nhiều chính sách, tổ chức trang bị chiến pháp, các
công sự chiến đấu, quá trình khai thác và thực thi chủ quyền tại hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó vùng biển đảo miền Trung
đã được đề cập ít nhiều dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trên các tạp chí khoa học chuyên nghành cũng có nhiều bài viết
ít nhiều liên quan đến kinh tế biển đảo. Tuy nhiên những bài viết này
chủ yếu được công bố dưới dạng một bài viết phân tích tư liệu, hoặc
mang tính nghiên cứu tổng quan trên dưới mười trang giấy nên chỉ mới
đề cập dến những khía cạnh nhỏ của kinh tế biển đảo.
Hướng nghiên cứu này, cũng đã có một số công trình nghiên cứu
của sinh viên, giảng viên trường Đại Học Sư Phạm Đà Nẵng thực hiện
như: Kinh tế biển đảo Đàng Trong thời chúa Nguyễn (1588- 1777), của
sinh viên Huỳnh Thị Thúy “ Ngư nghiệp miền Trung dưới thời Nguyễn
(1802-1884)”, của sinh viên Nguyễn Thị Thúy ; Hoạt động của cướp
biển ở biển đảo Trung Bộ Việt Nam và biện pháp đối phó của triều
Nguyễn, của tác giả Nguyễn Duy Phương, đề tài cấp ĐHĐN năm 2018.
Những công trình trên là những kết quả mà tác giả luận văn có thể
kế thừa khi thực hiện đề tài này. Tuy nhiên các nghiên cứu trên tập trung
nhiều về việc xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Biển
Đông, chính sách của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ an ninh biển đảo,
còn tình hình kinh tế biển đảo nước ta nhất là kinh tế biển đảo vùng Nam
Trung Bộ thì chưa được nghiên cứu nhiều, có nhiều vấn đề chưa được
làm rõ. Như vậy có thể khẳng định, đến nay chưa có công trình nào chọn
vấn đề này làm đối tượng nghiên cứu chính.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nhằm làm rõ các hoạt động kinh tế biển đảo Nam
4
Trung bộ thế kỉ XIX, từ đó cung cấp thêm cơ sở lịch sử khách quan cho
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển đảo ngày nay, đồng thời, giúp đúc rút những bài học kinh nghiệm
lịch sử cho công cuộc phát triển kinh tế biển đảo và bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ trong bối cảnh hiện tại.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát về vùng đất Nam Trung Bộ, nêu rõ một số cơ sở lí luận
về kinh tế biển đảo và tổng quan kinh tế biển đảo trước triều Nguyễn
(1802-1884).
Trình bày kinh tế biển đảo Nam Trung bộ dưới triều Nguyễn
(1802-1884). Cụ thể là nêu rõ các hoạt động: khai thác, chế biến hải
sản; khai thác tổ yến; hoạt động vận tải biển; hoạt động thương mại
biển. Qua đó góp phần làm sáng tỏ hơn nữa chính sách của triều
Nguyễn về kinh tế biển đảo.
Phân tích đặc điểm, vai trò của kinh tế biển đảo Nam Trung Bộ
dưới triều Nguyễn và rút ra được bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc
bảo vệ, tuyên truyền chủ quyền biển đảo hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu, đề tài giới hạn tại vùng biển Nam
Trung Bộ dưới triều Nguyễn, bao gồm các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam,
Quãng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình
Thuận hiện nay, gồm tất cả vùng biển, bờ biển, cửa biển, hải đảo.
Về thời gian, tác giả giới hạn từ năm 1802 đến năm 1884 là
khoảng thời gian từ khi triều Nguyễn được thành lập đến trước khi
nước ta mất quyền độc lập tự chủ.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Để thực hiện đề tài tác giả sử dụng các nguồn tư liệu sau:
Các tư liệu thành văn do triều Nguyễn biên soạn như : Đại Nam
thực lục; Đại Nam nhất thống trí ; Châu bản triều Nguyễn, Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ, Minh Mạng chính yếu….Đặc biệt nguồn tư
5
liệu quan trọng nhất là Châu bản triều Nguyễn, đây là những tư liệu gốc
có giá trị trong nghiên cứu
Bên cạnh đó, tôi cũng tham khảo một số công trình nghiên cứu
của các tác giả đi trước, gồm các nhóm tài liệu như: báo cáo kết quả
công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, các luận án, luận
văn, các bài báo cáo khoa học được công bố trên các tạp chí chuyên
nghành, các tham luận hội thảo trong nước và quốc tế.
Nguồn tư liệu điền dã là các văn bản Hán Nôm gồm các sắc, các
báo về nghề yến Thanh Châu (Hội An ).
Nguồn tư liệu từ các trang web chính thức của các hội khoa học,
trung ương, tỉnh, thành phố.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tác giả sử
dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic để khai thác và sử
dụng các nguồn tư liệu. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp
liên nghành trong quá trình thống kê so sánh tài liệu, xử lý số liệu, sau
đó đánh giá các kết quả đạt được để làm sáng tỏ vấn đề đang nghiên
cứu một cách khoa học nhất.
Trong xử lý, trích dẫn tư liệu, tác giả sử dụng tư liệu gốc do triều
Nguyễn biên soạn và được cơ quan chuyên môn có uy tín dịch thuật,
nên độ tin cậy cao. Vì nhiều lý do khách quan tác giả không thể tiếp cận
tư liệu gốc mà phải trích dẫn, với những trường hợp đó, tác giả đều ghi
rõ nguồn trích dẫn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ hơn nữa về tình hình khai thác kinh tế biển
đảo Nam Trung Bộ cũng như các hoạt động khai thác, chế biến, vận tải
và thương mại biển, nghề hỗ trợ cho kinh tế biển đảo.
Khẳng định vai trò của kinh tế biển đảo với nhiệm vụ an ninhquốc phòng ở vùng biển Nam Trung Bộ dưới triều Nguyễn. Rút ra được
những bài học kinh nghiệm quan trọng trong quá trình khai thác biển
đảo của cha ông, là cơ sở cho việc đề ra chính sách giáo dục, tuyên
6
truyền chủ quyền biển đảo trong giai đoạn hiện nay. Đề tài sẽ là tài liệu
tham khảo cần thiết trong học tập, nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Việt
Nam giai đoạn TK XIX và các cơ quan quản lý, khai thác, bảo vệ biển
đảo.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn dự kiến gồm ba chương như sau:
Chương 1: Khái quát vùng đất Nam Trung Bộ và kinh tế biển
đảo trước triều Nguyễn
Chương 2: Hoạt động khai thác biển đảo Nam Trung Bộ dưới
triều Nguyễn (1802-1884)
Chương 3: Vai trò của kinh tế biển đảo Nam Trung Bộ dưới triều
Nguyễn (1802-1884)
Chương 1
KHÁI QUÁT BIỂN ĐẢO NAM TRUNG BỘ VÀ KINH TẾ BIỂN
ĐẢO TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN
1.1. Tổng quan vùng Nam Trung Bộ
1.1.1. Vị trí địa lý
Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 8 tỉnh thành theo thứ tự Bắc –
Nam: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Đây là vùng có ý nghĩa vô cùng to lớn
trong việc phát triển kinh tế biển, quân sự vì đây chính là cầu nối Bắc -
Nam và Tây Nguyên với biển.
Nằm ở vị trí cận giáp biển, tất cả các tỉnh đều có đường bờ biển
chạy dọc ở phía Đông. Địa hình ở đây chủ yếu là đồng bằng ven biển
và núi thấp, chạy theo hướng Đông Tây xen giữa là các đồng bằng nhỏ
hẹp, bờ biển bị cắt xẻ khúc khuỷu, nhiều đoạn cắt sâu vào đất liền tạo
thành nhiều cảng nước sâu lớn. Xét về điều kiện tự nhiên, khu vực này
7
không nhiều tiềm năng về nông nghiệp nhưng lại sở hữu những điều
kiện tuyệt vời cho phát triển kinh tế biển và thương mại hàng hóa biển.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên và dân cư
- Địa hìnhvà đất đai: Về địa hình duyên hải nam trung bộ khá
phức tạp, có sự đan sen rõ ràng giữa 3 tài nguyên: rừng – núi và biển,
bề mặt địa hình của các tỉnh Nam Trung Bộ bị chia cắt nhiều bởi những
sườn núi kéo dài từ dãy Trường Sơn ra đến biển, tạo nên những thung
lũng rộng hẹp khác nhau còn bờ biển lại khúc khủy nên hình thành
nhiều đảo, bán đảo, quần đảo.
- Sông ngòi và khí hậu : Ở các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ có
hệ thống sông ngòi dày đặc, thường ngắn nhưng độ dốc tương đối cao,
lớn dần về phía hạ lưu và đổ trực tiếp ra biển.
Nam Trung Bộ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng
ẩm, chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa khô bắt đầu từ tháng 1 và kết thúc vào
tháng 8; mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 12.
- Tài nguyên thiên nhiên: Vùng Nam Trung Bộ có nguồn tài
nguyên thiên nhiên khá phong phú, đa dạng như thạch anh, than, thiếc,
vàng, chì, kẽm,.... Bờ biển Nam Trung Bộ nước ta có điều kiện thuận
lợi trong việc khai thác và chế biến muối biển, đó là có nhiều ngày nắng
trong năm. Tài nguyên lớn nhất của vùng đó là thủy hải sản, nơi đây
thuận lợi vì có nhiều bãi tôm, bãi cá. Có ngư trường lớn ở Hoàng Sa
(TP Đà Nẵng) và Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa), biển các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
-Đặc điểm dân cư : Phần lớn dân cư trong vùng chủ yếu là người
Kinh sinh sống ở vùng đồng bằng ven biển. Còn vùng miền núi phía
Tây là nơi sinh sống của các tộc người thiểu số, vớimật độ dân cư thưa
thớt hơn.
1.1.3. Biển đảo vùng Nam Trung Bộ
- Đảo Cù Lao Chàm: Là điểm thuận lợi cho tàu thuyền cập bến
tránh gió bão và trao đổi hàng hóa, đồng thời là nơi trú ngụ của cư dân.
8
Tài nguyên trên quần đảo này khá phong phú, đặc biệt là nguồn nước
ngọt cung cấp cho các tàu thuyền của người dân khi đi buôn bán hoặc
đi đánh cá ngang qua. Người dân trên Cù Lao Chàm phần lớn làm nghề
khai thác thủy, hải sản.
- Đảo Lý Sơn :Huyện đảo Lý Sơn nằm ở phía Đông Bắc tỉnh
Quảng Ngãi, cách bờ biển khoảng 18 hải lý, gồm 1 đảo lớn (cù lao Ré)
và đảo bé (cù lao Bờ Bãi) cách nhau 1.67 hải lý. Ngoài ra, ở phía Đông
cù lao Ré có hòn Mù Cu vốn là bãi đá nhô cao lên trên mặt biển.
- Quần đảo Hoàng Sa: Quần đảo Hoàng Sa có khí hậu nhiệt đới,
nóng ẩm, mưa nhiều, thường có sương mù và nhiều giông bão, nhất là
từ tháng 6 đến tháng 8 hàng năm. Vùng biển này có tiềm năng lớn về
khoáng sản và nguồn hải sản, thuận lợi trong việc phát triển kinh tế,
quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường giao
thông trên biển và trên không trong khu vực phía Bắc biển Đông [73; tr.
12-13].
- Quần đảo Trường Sa: Quần đảo Trường Sa có vị trí rất quan
trọng, nằm án ngữ đường hàng hải quốc tế nối liền Ấn Độ Dương với
Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, một tuyến đường huyết mạch được
coi là tấp nập vào hàng thứ hai trên thế giới; chứa đựng nhiều nguồn tài
nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú, đa dạng, kể cả nguồn tài
nguyên dầu khí mà các kết quả khảo sát đánh giá là có triển vọng to
lớn.
Ngoài ra còn có các đảo như : Cù lao Xanh (đảo Nhơn Châu) còn
gọi là đảo Vân Phi . Đảo Hòn Tre là đảo lớn nhất nằm trong vịnh Nha
Trang. Bán đảo Sơn Trà cùng với đèo Hải Vân bao bọc thành phố Đà
Nẵng và vịnh Đà Nẵng.
1.1.4. Khái quát lịch sử hình thành vùng đất Nam Trung Bộ
Dưới các triều đại Trần, Hồ, Lê các tỉnh Quảng Nam – Đà
Nẵng đến Bình Định lần lượt được sáp nhập vào nước ta. Đến thời Lê
Thánh Tông, ranh giới nước ta về phía Nam đã kéo dài đến núi Thạch
9
Bi (phía Nam Phú Yên) nhưng trên thực tế, dân Việt chỉ mới sinh sống
ở phía Bắc đèo Cù Mông, thuộc tỉnh Bình Định ngày nay.
. Quá trình mở mang lãnh thổ Nam Trung Bộ của các chúa
Nguyễn diễn ra 115 năm, tính từ thời điểm bắt đầu mở đất Phú Yên cho
đến khi có được phủ Bình Thuận. Năm 1802 triều Nguyễn được thành
lập, đơn vị hành chính của các tỉnh có sự thay đổi qua các thời kỳ lịch
sử, trong đó có các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Đến năm 1834, vua
Minh Mạng phân chia đất nước ra các khu vực quản lý. Trong đó Nam
Trung Bộ được chia thành: Tả Trực gồm hai tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi; Tả Kỳ gồm 4 tỉnh là Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình
Thuận.
Cùng với việc xác lập các địa danh và địa giới hành chính các
tỉnh Nam Trung Bộ, các vị vua triều Nguyễn rất chú trọng đến việc xác
lập chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là một
biểu hiện của việc mở rộng, nâng cao sự quản lý toàn diện trên cả đất
liền và hải đảo.
1.2. Một số khái niệm về kinh tế biển đảo
Tính đến thời điểm hiện tại thì ở các quốc gia trên thế giới chưa
hoàn toàn có sự đồng thuận về khái niệm kinh tế biển, lý do là bởi mỗi
quốc gia có biển khác nhau, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau lại có cách
nhìn khác nhau về kinh tế biển. Vì vậy khái niệm kinh tế biển cũng bị
phụ thuộc vào cách nhìn nhận, tuỳ theo hướng tiếp cận và giá trị đóng
góp của vùng biển đối với nền kinh tế quốc gia đó.
Đại hội XII của Đảng xác định: “Chú trọng phát triển các ngành
công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng
hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển),
du lịch biển, đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tư để
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường... Tập trung đầu tư, nâng cao
hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển” [13, tr.94-95].
10
Từ những định nghĩa về kinh tế biển như đã nêu, chúng ta thấy
đặc trưng của kinh tế biển khác với các ngành kinh tế khác. Vì kinh tế
biển luôn mang những tính chất kinh tế đặc thù, mang tính chất đa
ngành, đa lĩnh vực.
Đối chiếu với khái niệm về kinh tế biển đảo như đã trình bày, căn
cứ vào những đóng góp của các nghành, nghề từ biển đối với nền kinh
tế phong kiến lúc bấy giờ, tựu chung kinh tế biển đảo dưới triều
Nguyễn chủ yếu bao gồm: khai thác, chế biến hải sản; khai thác tổ yến
và làm muối; hoạt động vận tải và hoạt động thương mại biển.
1.3. Kinh tế biển đảo Nam Trung Bộ trước triều Nguyễn
Trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam, truyền thuyết về Lạc
Long Quân và Âu Cơ đã cho thấy tư duy sơ khai về quá trình chinh phục
biển của người Việt cổ. Hình thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn
khẳng định từ lâu dân tộc ta đã gắn với sông nước, lấy thuyền làm phương
tiện sinh sống.
Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần Hồ, Lê Sơ
đều có những việc làm cụ thể trong chính sách hướng biển, đó là việc
đóng nhiều tàu thuyền để tham gia vào việc khai thác biển đảo, công tác
tuần tra trên biển; nhà vua đích thân hoặc cử tướng lĩnh tham gia vào
các cuộc tuần hành, kiểm tra, thị uy trên các vùng lãnh hải mà mình
đang quản lý. Đến thời các chúa Nguyễn và triều Tây Sơn, không chỉ
hướng biển để khai thác ngồn tài nguyên từ biển phục vụ cuộc sống và
xây dựng đất nước vững mạnh mà hoạt động bảo vệ biển đảo cũng luôn
được quan tâm và tiến hành thường xuyên với ý thức rất rõ về chủ
quyền và trách nhiệm.
Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, kinh tế thương
mại, trong đó có kinh tế biển đảo đã luôn đóng vai trò quan trọng, góp
phần tạo nên sự hưng thịnh của kinh tế nước ta trong nhiều thời kỳ lịch
sử.
11
Chương 2
HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BIỂN ĐẢO NAM TRUNG BỘ DƯỚI
TRIỀU NGUYỄN (1802-1884)
2.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn (1802-1884)
2.1.1 Tình hình thế giới
Bước sang thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển
nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa), ngày càng phát triển mạnh trên phạm vi thế
giới và vùng viễn đông. Đây là thời kì các nước tư bản phương Tây đẩy
nhanh quá trình tranh giành thị trường và xâm chiếm thuộc địa, hầu hết
các nước Châu Á đều trở thành mục tiêu xâm lược của thực dân
phương Tây. Việt Nam dưới triều Nguyễn phải đối mặt với nguy cơ
xâm lược từ phương Tây.
2.1.2 Tình hình trong nước
Đứng trước tình hình thế giới có nhiều chuyển biến thì ở trong
nước, triều Nguyễn vẫn xây dựng và điều hành đất nước theo lối bảo
thủ đó là tiếp tục xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế lấy Nho
giáo làm hệ tư tưởng chính thống của triều đại, nó đã chi phối cách nhìn
và cách điều hành đất nước của vua tôi nhà Nguyễn.
Nhà Nguyễn đã có rất nhiều những chính sách, biện pháp để xây
dựng, củng cố đất nước và cũng đã đạt được những thành tựu nhất định,
tuy nhiên trong hơn nửa đầu thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam dưới triều
nhà Nguyễn, hầu như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến
bộ của thời đại. Tình hình hình đất nước còn nhiều bất ổn, người dân
chưa thực sự có được cuộc sống yên bình. Mâu thuẫn của xã hội sâu sắc
làm bùng lên hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân, của các
dân tộc ít người, và cuối cùng nước Việt Nam trở thành đối tượng của
chủ nghĩa thực dân phương Tây.
12
2.2. Hoạt động khai thác biển đảo Nam Trung Bộ dưới triều
Nguyễn
2.2.1. Hoạt động khai thác, chế biến hải sản
Trong sinh hoạt kinh tế và đời sống của cư dân Nam Trung Bộ từ
thế kỷ XIX trở về trước, khai thác hải sản vùng biển đảo là một hoạt
động quan trọng chỉ xếp sau nghề trồng lúa nước. Dưới triều Nguyễn
cũng vậy, hoạt động khai thác hải sản diễn ra nhộn nhịp ở những vùng
ven biển này.
- Về ngư trường đánh bắt chủ yếu : Ngư trường chính mà nhân
dân ta thường lui tới phải kể đến: Quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng), Quần
đảo Trường Sa ( Khánh Hòa), Cù Lao Chàm (Quảng Nam),. Cù lao Ráy
thuộc tỉnh Quảng Ngãi, mũi Nạy thuộc tỉnh Phú Yên, hòn Ro ở Nha
Trang thuộc Khánh Hòa, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
- Các loại thủy, hải sản ngư dân thường xuyên đánh bắt: Từ
những ghi chép trong sử sách đã cho ta thấy nguồn thủy hải sàn ở vùng
biển Nam Trung Bộ rất đa dạng, phong phú, ngư dân các tỉnh đánh bắt
được nhiều loại hải sản phổ biến như: cá chuồn, cá sơn, cá nục, cá cơm,
sò, ngao, tôm, ốc, rươi, mực..... Không chỉ là nguồn thực phẩm, thuỷ
hải sản còn là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận
dân cư làm nghề khai thác, chế biến, tiêu thụ và sản xuất hàng tiêu dùng
cho cộng đồng dân cư đặc biệt ở những vùng nông thôn và miền núi.
- Thời gian đánh bắt trong năm : Ngư dân miền biển nói chung,
thời gian ra khơi đánh bắt thủy hải sản cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó
quyết định sản lượng hải sản mà cư dân có thể đánh bắt được, vì cá có
nhiều hay ít là tùy theo mùa. Mặt khác, mỗi mùa trong năm lại gắn với
một kiểu khí hậu riêng. Những người dân sống bằng nghề biển luôn
chọn những thời gian thích hợp nhất trong năm để ra khơi. Đối với việc
dánh bắt xa bờ thời gian thuận lợi nhất là những tháng sóng yên biển
13
lặng, không có giông bão, đó là xuất phát vào tháng 3, khi nào đến
tháng 8 thì về, tức là trở về trước mùa mưa bão, giông tố.
- Chế biến hải sản: Đánh bắt cá mang tính mùa vụ và số lượng cá
ở những khu vực đánh bắt được số lượng quá lớn so với nhu cầu tại
chỗ, không thể nào tiêu thụ hết, với đặc tính của các loại thủy hải sản
tươi, sống không thể vận chuyển đi tiêu thụ ở những nơi xa thì ngư dân
phải chế biến các sản phẩm đã đánh bắt được. Đồng thời ngư dân cũng
tiến hành chế biến cá, tôm, mực để thay đổi khẩu vị hoặc để dự trữ
những mùa không ra khơi. Cũng như các thời kỳ trước, chế biến cá
dưới triều Nguyễn cũng rất đa dạng, phong phú về phương pháp, nhưng
vẫn còn lạc hậu vì chủ yếu là theo kinh nghiệm dân gian. Phương pháp
chế biến truyền thống là phơi khô các loại cá, tôm, mực đánh bắt được
và chế biến cá muối (cá mắm), mắm cua, dầu cá, mắm ruốc, nước mắm.
-Phương tiện đánh bắt thủy hải sản: Muốn đánh bắt thủy hải sản,
ngư dân phải trang bị ngư cụ, bên cạnh các ngư cụ, khi ra khơi ngư dân
còn có phương tiện là thuyền buồm, thuyền thúng, ghe bầu, ghe mành,
ghe giả ….đây là những phương tiện không thể thiếu để ra khơi.
-Thuế khai thác thủy hải sản: Đối với ngư dân Đại Việt, dưới
triều Nguyễn thuế thuyền có hai loại: một là thuyền buôn, hai là thuyền
đánh cá.
2.2.2. Khai thác tổ yến và làm muối
- Khai thác tổ yến: Yến sào là loại hàng hóa hiếm quý, đắt giá
trên thị trường. Tổ yến dính vào tường như cái muỗng trắng, tổ chim
yến chỉ có ở một số đảo trên biển Nam Trung Bộ ( cù lao Chàm thuộc
Quảng Nam, cù lao Ráy thuộc Quãng Ngãi, các đảo thuộc biển Quy
Nhơn, Khánh Hòa..) và miền Nam Việt Nam, hoạt động khai thác rất
khó khăn và nguy hiểm.
Khi đất nước ổn định triều Nguyễn tiếp tục tổ chức Đội Thanh
Châu theo kiểu quân đội, độc quyền nghề khai thác tổ yến với hai dòng
tổ nghề là họ Trần và họ Hồ truyền đời giữ chức “Quản lĩnh tam tỉnh