Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khóa luận giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của lao động nông thôn huyện đồng hỷ
PREMIUM
Số trang
142
Kích thước
709.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1988

Khóa luận giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của lao động nông thôn huyện đồng hỷ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

Thái Nguyên,

2008

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐINH QUANG THÁI

GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU

VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN

ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

MÃ SỐ: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐINH QUANG THÁI

GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU

VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN

ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

MÃ SỐ: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ NGÔ XUÂN HOÀNG

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội có tính

toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay, quan

niệm về phát triển được hiểu đầy đủ là: Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ,

công bằng xã hội; phải xoá đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp…

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm

cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc

làm, được ấm no và được sống một đời hạnh phúc” [dt 23,tr.17]. Tư tưởng của

người luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách của Đảng

và Nhà nước ta về giải quyết việc làm cho người lao động.

Ở nước ta hiện nay, nông thôn chiếm 74,37% dân số và 75,6% lực

lượng lao động (32,7 triệu trong 43 triệu lao động cả nước) và gần 90% số

người nghèo của cả nước vẫn đang sống ở nông thôn. Tỷ lệ thời gian nhàn rỗi

ở nông thôn chiếm 19,3%, thất nghiệp ở thành thị 5,1%. Văn kiện Đại hội Đại

biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhận định: “Tỷ trọng trong nông nghiệp

còn quá cao. Lao động thiếu việc làm và không có việc làm còn nhiều. Tỷ lệ

qua đào tạo rất thấp” [dt 14,tr.166] .

Thất nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ diễn biến rất phức tạp, cản trở quá

trình vận động và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao

động là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho từng ngành, địa phương và từng gia

đình. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt, nhằm phát huy

tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã

hội, mặt khác, là hướng cơ bản để xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả, là cơ sở để

cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần quan trọng giữ vững an

ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thực hiện sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Giải quyết

việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều biện pháp, tạo ra nhiều

việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông

nghiệp, nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ

sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện

điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn

và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển các làng

nghề… sớm xây dựng và thực hiện chính sách trợ cấp cho người lao động thất

nghiệp” [dt 16,tr.140,150]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X

của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho

nông dân và cho lao động nông thôn, nhất là các vùng nhà nước thu hồi đất để

xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, giảm nhanh tỉ trọng lao động làm

nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều

kiện cho lao động nông thôn có việc làm…” [dt 14,tr.195]

Trong thời gian qua tỉnh Thái Nguyên đã có một số biện pháp nhằm

giải quyết vấn đề việc làm trong lao động nông thôn, nhưng qua thực tiễn cho

thấy cũng chỉ giải quyết được một số vấn đề nhỏ.

Huyện Đồng Hỷ là một huyện phần lớn là sản xuất nông nghiệp, trình

độ sản xuất nông nghiệp còn thấp và là nơi tập trung các dân tộc thiểu số, tình

hình kinh tế - xã hội chưa thực sự phát triển, vấn đề lao động nông thôn dư

thừa đang còn là những bất cập cần được giúp đỡ và giải quyết.

Xã hội ngày càng phát triển mạnh nhưng ở Đồng Hỷ vẫn chưa có giải

pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề việc làm nông thôn, xuất phát từ những lí

do trên tác giả lựa chọn đề tài: "Giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu

việc làm của lao động nông thôn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên" làm đề

tài luận văn thạc sĩ.

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu chung

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về việc làm của lao động nông thôn

huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, sẽ thấy có những ưu điểm, những tồn tại

và tiềm năng về lao động và việc làm, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm

giải quyết nhu cầu việc làm để nâng cao chất lượng cuộc sống con người lao

động nông thôn của huyện, góp phần thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội của huyện.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Góp phần hệ thống hoá về cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động và nhu

cầu việc làm nói chung, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nói riêng.

- Phân tích đánh giá thực trạng việc làm của lao động nông thôn trên

địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.

- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu việc làm của lao

động nông thôn trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến việc làm và nhu cầu việc làm

của người lao động nông thôn trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nội dung nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu về thực trạng của lao

động nông thôn của huyện Đồng Hỷ

- Về không gian nghiên cứu trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.

- Về thời gian nghiên cứu thực trạng huyện Đồng Hỷ từ năm 2005 -

2007, số liệu sơ cấp được thu thập ở các hộ nông dân năm 2007.

4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, là tài liệu

giúp huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên xây dựng quy hoạch phát triển nguồn

nhân lực, thực hiện hiệu quả chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói

giảm nghèo và đẩy lùi các tệ nạn xã hội trên địa bàn.

5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo nội dung của luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở khoa học về vấn đề việc làm của người lao động

nông thôn và phương pháp nghiên cứu.

Chương 2: Thực trạng việc làm của người lao động nông thôn huyện

Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.

Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm

cho lao động nông thôn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI LAO

ĐỘNG NÔNG THÔN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VIỆC LÀM

CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

1.1.1. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu việc làm cho người lao động

1.1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

* Khái niệm về lao động và lao động nông thôn

+ Lực lượng lao động: Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về

lực lượng lao động.

Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (cũ),

(Matxcơva 1997, tiếng Nga) lực lượng lao động là khái niệm định lượng của

lao động .

Theo từ điển thuật ngữ Pháp (1997-1985) lực lượng lao động là số

lượng và chất lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn

trung bình về khả năng lao động có thể sử dụng.

Nhà kinh tế học David Begg cho rằng : Lực lượng lao động có đăng ký

bao gồm số người có công ăn việc làm cộng với số người thất nghiệp có đăng ký.

Theo tổ chức lao động của (ILO): Lực lượng lao động là một bộ phận

dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham gia lao động và những người

không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm.

Có việc làm (b) Không có việc làm

Dân số trong tuổi lao động quy định (a)

N

Lực lƣợng lao động Không thuộc lực lƣợng lao động

Chủ động tìm việc Không chủ động tìm việc

Sẵn sàng làm việc

Muốn làm việc Không muốn làm việc

E

N

U

E: Người có việc làm

U: Người thất nghiệp

N: Người không tham gia hoạt động kinh tế

Sơ đồ 1.1 Cơ cấu lực lượng lao động

Theo Thuật ngữ về lĩnh vực lao động của Bộ Lao động Thương binh và

Xã hội Việt Nam thì lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có

việc làm và những người thất nghiệp. Lực lượng lao động đồng nghĩa với dân

số hoạt động kinh tế; lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn lao

động [dt 39,tr.11].

Từ những quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam,

chúng tôi đưa ra quan niệm về lực lượng lao động như sau: Lực lượng lao

động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm

hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.

+ Lao động: Khái niệm về lao động có nhiều cách tiếp cận khác nhau

nhưng suy đến cùng, lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt

con người với con vật và xã hội loài người và xã hội loài vật, bởi vì: Khác với

con vật, lao động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động

vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành sản phẩm phục

vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Theo C.Mác “Lao động trước hết là

một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng

hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự

trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [dt 37,tr.230,321].

Ph.Ăng ghen viết: “Lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động

đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho

lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng

lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời

sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta

phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người” [dt 38,tr.641].

Như vậy, có thể nói lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của

con người, trong quá trình lao động con người vận dụng sức lực tiềm tàng

trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng

lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình. Nói cách khác,

trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, lao động bao giờ cũng là điều kiện để

tồn tại và phát triển của xã hội.

+ Nguồn lao động và lực lượng lao động :

Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa

quan trọng làm cơ sở cho việc tính toán cân đối lao động, việc làm trong xã hội.

Theo giáo trình kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế quốc dân

(2005) đưa ra khái niệm “Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao

động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham

gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động)

đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân” [dt 5,tr.167].

Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc quy định độ tuổi lao động là khác

nhau, thậm chí khác nhau ở các giai đoạn của mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc

vào trình độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, theo quy định của Bộ luật Lao động

(2002), độ tuổi lao động đối với nam từ 15-60 tuổi và nữ là từ 15-55 tuổi.

Nguồn lao động luôn được xem xét trên hai mặt, biểu hiện đó là số lượng và

chất lượng.

Số lượng lao động: Là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có

khả năng lao động gồm: Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong

độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học,

đang làm công việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu việc làm và

những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước

tuổi quy định).

Chất lượng lao động: Cơ bản đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay nghề

(trí lực) và sức khoẻ (thể lực) của người lao động.

Lực lượng lao động: Theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế

(ILO) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo thực tế đang có việc làm

và những người thất nghiệp.

Theo giáo trình Kinh tế phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà

Nội (2005), ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm sau: “Lực lượng lao

động là bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất

nghiệp” [dt 5,tr.168]. Lực lượng lao động theo quan niệm như trên là đồng

nghĩa với dân số hoạt động kinh tế (tích cực) và nó phản ánh khả năng thực tế

về cung ứng lao động của xã hội.

+ Thị trường lao động

Nước ta, từ khi chuyển sang vận hành theo nền kinh tế thị trường, thì

thuật ngữ “Thị trường lao động” đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với

nhiều khái niệm khác nhau. Mỗi định nghĩa nhấn mạnh vào một phương diện

nào đó của thị trường này.

Đề tài cấp nước KX 04-04 cho rằng: Thị trường lao động là toàn bộ các

quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (bao gồm

các mối quan hệ lao động cơ bản như: Tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội,

tranh chấp lao động ...) ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là

người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động.

Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ (2003-2004), Thị trường lao động

Việt Nam thực trạng và giải pháp, của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, đưa ra khái niệm “Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị

trường, trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự

do và một bên là người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được

thoả thuận trên cơ sở các mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều

kiện việc làm, bảo hiểm xã hội... thông qua một hợp đồng lao động bằng văn

bản hoặc bằng miệng” [dt 52,tr.5].

Giáo trình của Khoa kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế quốc

dân Hà Nội cũng đưa ra một số khái niệm về thị trường lao động như sau:

Là một không gian trao đổi tiến tới thoả thuận giữa người sở hữu sức

lao động và người cần có sức lao động để sử dụng.

Là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm được việc làm để

có thu nhập và người sử dụng lao động để thuê được công nhân bằng cách trả

công để tiến hành sản xuất kinh doanh.

Là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn

lao động.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang Hiển (1995), trong tác phẩm Thị trường

lao động thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội: “Thị

trường lao động là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực

thuê mướn lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những

người làm thuê và đang sử dụng sức lao động của mình để được nhận một

khoản tiền công” [dt 35,tr.9].

Theo ILO: Thị Trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao

động được mua và bán thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc

làm của lao động cũng như mức độ tiền lương và tiền công.

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều

thống nhất với nhau về nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao

động, đó là: Không gian, người cần bán sức lao động, người cần mua sức lao

động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về nội dung này,

và cũng từ những quan điểm đó, thị trường lao động được hiểu là: Biểu hiện

quan hệ lao động diễn ra giữa một bên là người lao động và một bên là người

sử dụng lao động, dựa trên nguyên tắc thoả thuận, thông qua các hợp đồng lao

động.

Các yếu tố cấu thành thị trường lao động có thể khái quát thành 4 nhóm

gồm: Cung lao động; cầu lao động; giá cả sức lao động (tiền lương, tiền

công); thể chế; tổ chức và hệ thống công cụ của thị trường lao động.

+ Cung về lao động: Là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ những

người trong và ngoài độ tuổi lao động.

Số lượng cung lao động có thể xem xét qua 2 khía cạnh:

Cung thực tế lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao

động đang làm việc và những người thất nghiệp, cung thực tế về lao động

chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.

Cung tiềm năng về lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ tuổi

lao động và những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có

khả năng lao động đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình

mình hoặc không có nhu cầu làm việc.

+ Cầu về lao động: Là khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao

động với các mức tiền lương, tiền công tương ứng.

Cầu cũng như cung, cầu về lao động cũng phải được xem xét trên hai khía

cạnh: Cầu thực tế và cầu tiềm năng.

Cầu thực tế về lao động: “Là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại

một thời điểm nhất định” [ dt 52,tr.8].

Cầu thực tế

về lao động

Chỗ việc làm cũ

=

+

được duy trì

Chỗ việc làm

bị trống

Chỗ việc

+

làm mới

Chỗ làm việc trống: Là chỗ làm việc đã từng sử dụng lao động, nay

không có lao động làm việc và đang có nhu cầu sử dụng lao động.

Chỗ làm việc mới: Là chỗ làm việc mới xuất hiện và đang có nhu cầu

sử dụng lao động.

Cầu tiềm năng lao động: “Là số lao động tương ứng với tổng số chỗ

việc làm có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm

trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, chính trị xã hội”

[dt 51,Tr.8]

Cầu tiềm năng = cầu thực tế + số chỗ làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.

+ Quan hệ cung, cầu lao động:

Thể hiện trên 3 trạng thái: Trạng thái cân bằng cung - cầu lao động,

trạng thái rối loạn cân bằng cung cầu lao động và trạng thái cân bằng mới.

Trong thị trường sức lao động quy luật cầu-cung thể hiện khá rõ. Nếu mức

tiền công quá cao (xem đồ thị 1.1) U1P1 thì có hiện tượng cung lao động lớn

hơn về cầu lao động. Nghĩa là số người muốn đi làm việc sẽ lớn hơn số người

tìm được việc làm ở mức tiền công này.

Đoạn D1S1 là số người bị thất nghiệp trên thị trường lao động. Ngược lại,

khi mức tiền công thấp U2P2 thì khả năng thu hút lao động sẽ lớn hơn và xuất

hiện cầu về lao động lớn hơn cung, đoạn S2D2 là sự thiếu hụt về lao động.

Như vậy, theo quy luật của thị trường lao động thì giá cả tiền công luôn có xu

hướng trở về U0P0 để cung và cầu về lao động được cân bằng.

UP

SL

U1P1

D1 S1

0

U0P0

U2P2

S2 D2

DL

0 L

Đồ thị 1.1 Mối quan hệ cầu cung về lao động

Trong đó : OL: là số chỗ làm việc OUP: Tiền công

SL: Cung lao động DL: Cầu lao động

Cầu, cung lao động là hai vế của thị trường lao động, sử dụng nguồn lao

động có hiệu quả, hoặc tận dụng nguồn lao động chỉ có thể đạt được khi cân

bằng cung-cầu lao động được duy trì ở một mức độ nhất định. Mỗi vế cầu

cung lao động luôn luôn biến đổi theo những nguyên nhân riêng của chúng và

do tác động tương hỗ giữa chúng.

Trong các biện pháp tác động tới tương quan cầu-cung lao động thì tiền

công có tác động mạnh và trực tiếp nhất.

Sơ đồ 1.2 dưới đây thể hiện các thành phần chủ yếu của tương quan cầu

- cung lao động và các nhân tố tác động tới tương quan cầu - cung lao động

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!