Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ
PREMIUM
Số trang
225
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
846

Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

Lê Thị Sao Chi

Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật

trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu,

Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ

Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ

Mã số: 62.22.01.01

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Vinh

2

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 6

1. Lý do chọn đề tài 6

2. Lịch sử vấn đề 7

3. Đối tượng nghiên cứu và nguồn dẫn liệu 16

4. Nhiệm vụ nghiên cứu 16

5. Phương pháp nghiên cứu 17

6. Đóng góp của đề tài 18

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 20

1.1. Một số khái niệm của lý thuyết hội thoại liên quan đến lời độc thoại nội tâm 20

1.2. Độc thoại nội tâm trong truyện ngắn 24

1.3. Tiêu chí nhận diện lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ 39

1.4. Tiểu kết chương 1 58

Chương 2: CÁC HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ CỦA LỜI ĐỘC THOẠI

NỘI TÂM NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH

CHÂU, NGUYỄN HUY THIỆP, NGUYỄN THỊ THU HUỆ 60

2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ 60

2.2. Phân biệt hành động ngôn ngữ trong đối thoại và hành động ngôn ngữ

trong độc thoại 61

2.3. Tiêu chí xác định loại hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân

vật 71

2.4. Thống kê, miêu tả các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm

nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn

Thị Thu Huệ 74

2.5. Những nhân tố chi phối việc lựa chọn hành động ngôn ngữ của lời độc

3

thoại nội tâm 97

2.6. Tiểu kết chương 2 108

Chương 3: NGỮ NGHĨA LỜI ĐỘC THOẠI NỘI TÂM NHÂN VẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN HUY

THIỆP, NGUYỄN THỊ THU HUỆ 110

3.1. Khái niệm ngữ nghĩa của lời 110

3.2. Các nhân tố chi phối ngữ nghĩa lời độc thoại nội tâm 113

3.3. Các nhóm ngữ nghĩa của lời độc thoại nội tâm 132

3.4. Tiểu kết chương 3 158

Chương 4: VAI TRÒ CỦA LỜI ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN HUY THIỆP,

NGUYỄN THỊ THU HUỆ 160

4.1. Vai trò biểu hiện tâm lý và tính cách nhân vật trong tính đối thoại của

lời độc thoại nội tâm 160

4.2. Vai trò định hướng hành động nhân vật trong cấu tạo lập luận của lời

độc thoại nội tâm 166

4.3. Vai trò thể hiện phạm vi hiện thực trong tác phẩm qua sắc thái giới tính

của lời độc thoại nội tâm 176

4.4. Vai trò khắc họa phong cách ngôn ngữ tác giả của lời độc thoại nội tâm 191

4.5. Vai trò thể hiện sự đổi mới thi pháp truyện ngắn của lời độc thoại nội tâm 195

4.6. Tiểu kết chương 4 200

KẾT LUẬN 203

TÀI LIỆU THAM KHẢO 207

4

MỤC LỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ

Trang

Bảng 2.1. Tần số xuất hiện của lời độc thoại nội tâm 74

Bảng 2.2. Các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ 75

Bảng 2.3. Các hành động ngôn ngữ tiêu biểu trong lời độc thoại nội tâm 98

Bảng 2.4. So sánh tương quan số lượng giữa hành động hỏi và hành động

khẳng định trong lời độc thoại nội tâm của nhân vật 107

Bảng 3.1. Không gian độc thoại 116

Bảng 3.1.a. Các không gian công cộng phổ biến 119

Bảng 3.1.b. Các nội dung độc thoại trong không gian gia đình 121

Bảng 3.1.c. Các không gian gia đình phổ biến 122

Bảng 3.2. Thời gian độc thoại 123

Bảng 3.3. Trạng thái tâm lý chủ thể khi độc thoại nội tâm 128

Bảng 3.3.a. Các loại trạng thái tâm lý dương tính 128

Bảng 3.3.b. Các loại trạng thái tâm lý âm tính 130

Bảng 3. 4. Các nhóm ngữ nghĩa của lời độc thoại nội tâm 134

Bảng 3.4.a. Các phương diện tìm hiểu về bản thân của chủ thể độc thoại 135

Bảng 3.4.b. Các mối quan hệ giữa chủ thể độc thoại với những người xung

quanh 143

Bảng 3.4.c. Những sự vật, hiện tượng khách quan được đề cập trong lời độc

thoại nội tâm 148

5

Bảng 3.4.d. Các nội dung triết lý nhân sinh trong lời độc thoại nội tâm 152

Bảng 3.4.đ. Các sắc thái tình yêu trong lời độc thoại nội tâm 154

Bảng 4.1. Vị trí của kết luận trong lập luận 169

Bảng 4.2. Tổ chức lập luận trong lời độc thoại nội tâm 175

Bảng 4.3. Số lượng hành động hỏi trong lời độc thoại nội tâm của nhân vật nam

và nhân vật nữ 181

Bảng 4.4. Số lượng hành động khẳng định, hành động phủ định trong lời

độc thoại nội tâm của nhân vật nam và nhân vật nữ 182

Bảng 4.5. Các từ, cụm từ biểu thị khả năng trong lời độc thoại nội tâm các

nhân vật nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ 186

Bảng 4.6. Các từ, cụm từ biểu thị cách diễn đạt khẳng định/ phủ định trong

lời độc thoại nội tâm các nhân vật nam của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn

Huy Thiệp 187

6

BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT

TT Nội dung viết tắt Ký hiệu viết tắt

1 Độc thoại nội tâm ĐTNT

2 Nguyễn Minh Châu NMC

3 Nguyễn Huy Thiệp NHT

4 Nguyễn Thị Thu Huệ NTTH

7

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Lời nói là khái niệm có ý nghĩa tiền đề, là đối tượng nghiên cứu trung

tâm của ngữ dụng học. Không nghiên cứu ngôn ngữ ở dạng tĩnh với những quy luật

và cấu trúc cứng nhắc, bất biến, ngữ dụng học chú trọng đến việc sử dụng ngôn ngữ

trong hoạt động giao tiếp, xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ với những ngữ cảnh

và người dùng khác nhau. Hướng tiếp cận này cho phép ngữ dụng học có thể nhận

ra những dạng thức, quy luật hành chức sinh động và đa dạng của ngôn ngữ.

1.2. Khi giao tiếp, lời nói được tổ chức thành hai dạng: lời đối thoại và lời

độc thoại nội tâm (ĐTNT). Lời đối thoại luôn thể hiện mối quan hệ tương tác giữa

người nói và người nghe trực tiếp, hiện diện trực quan trong quá trình nói năng. Do

vậy, nó là nguồn tư liệu quan trọng để ngữ dụng học tìm ra những nguyên tắc, đặc

tính hành chức của ngôn ngữ. Trong đời sống thực, lời ĐTNT thường diễn ra ngầm

ẩn, không hướng đến người nghe nào khác ngoài chính bản thân chủ thể độc thoại.

Nó là dạng lời thoại được người nói sử dụng để giao tiếp với chính mình - người

nghe đặc biệt. Những đặc điểm này khiến việc nghiên cứu lời ĐTNT từ lý thuyết

hội thoại hầu như còn bỏ trống.

1.3. Lời ĐTNT tồn tại khá phổ biến trong thực tế sử dụng ngôn ngữ để giao

tiếp, nhưng nó chỉ hiện diện rõ ràng, cụ thể ở tác phẩm nghệ thuật (kịch, tiểu thuyết,

truyện ngắn). Sự tái hiện ĐTNT vào tác phẩm nghệ thuật tất yếu không thể đảm bảo

tuyệt đối tính khách quan, nguyên bản của dạng lời nói này nhưng trên một mức độ

nhất định, các nhà văn luôn phải tôn trọng các đặc tính bản chất, các nguyên tắc nảy

sinh và sự hành chức của nó. Vì thế, khi chưa có điều kiện vật chất hoá lời ĐTNT ở

đời sống thực, lời ĐTNT trong tác phẩm nghệ thuật là một nguồn tư liệu đủ tin cậy

cho phép việc nghiên cứu về nó có thể đạt được những kết quả cơ bản bước đầu.

Đồng thời, tìm hiểu dạng lời nói này trong tác phẩm văn học cũng là tìm hiểu cách

thức tổ chức ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn, góp phần nhận diện phong cách

ngôn ngữ tác giả.

8

1.4. Sau 1975, văn học Việt Nam chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, có

những chuyển đổi mạnh mẽ về tư tưởng và phương pháp sáng tác. Các tác phẩm tập

trung thể hiện cuộc sống của con người cá nhân, những hậu quả mà chiến tranh để

lại trong thời bình. Trong sự đổi mới đó, thể loại truyện ngắn đã đạt được nhiều

thành quả nhất.

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiên phong của tiến trình đổi

mới văn học. Truyện ngắn của ông, ngay từ những năm đầu của thập niên 80 (thế kỷ

20), đã bộc lộ rõ khát vọng khám phá đời sống nội tâm con người trong thời đại

mới, đặc biệt là người lính trở về sau chiến tranh. Lời ĐTNT nhân vật là một

phương tiện ngôn ngữ được ông sử dụng rất hiệu quả để phản ánh phạm vi hiện

thực này, góp phần tạo nên dấu ấn phong cách độc đáo của tác giả.

So với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Thị Thu Huệ là

những nhà văn thuộc về thế hệ sau. Trong những năm 90 (thế kỷ 20), đây là hai tác

giả truyện ngắn nổi tiếng. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất sắc sảo, thể

hiện nổi bật trong lời thoại nhân vật. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

giàu nữ tính, phù hợp với việc tái hiện cuộc sống tâm hồn, tình cảm của các nhân

vật nữ. Khảo sát lời ĐTNT nhân vật trong truyện ngắn của họ sẽ cho phép sự

nghiên cứu về dạng lời nói này trở nên toàn diện, đầy đủ hơn.

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nói trên, chúng tôi lựa chọn

đề tài: Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh

Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những kết quả nghiên cứu có tính chất tiền đề về độc thoại nội tâm

(monologue intérieur)

Mặc dù độc thoại xuất hiện từ khá sớm (gắn liền với sự ra đời của kịch - một

loại hình nghệ thuật sân khấu) nhưng ĐTNT chỉ bắt đầu được chú ý vào những năm

cuối thế kỷ 18 và thực sự được tập trung nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Những tiểu

thuyết phương Tây hiện đại như: Ulysse (James Joyce); Đi tìm thời gian đã mất (M.

Proust); Thời gian khổ (Dickens) đã sử dụng ĐTNT với tư cách là một “phương

9

tiện” đã tới kịp vừa may để diễn đạt căn bệnh mới của thế kỷ trong tiểu thuyết mới

[25, tr.69]. Sự xuất hiện của ĐTNT một cách dày đặc và mới lạ trong tiểu thuyết

hiện đại đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu ở ngoài nước cũng như trong

nước.

2.1.1. Những kết quả nghiên cứu về độc thoại nội tâm ở ngoài nước

Vấn đề đầu tiên mà các nhà nghiên cứu ở nước ngoài đặt ra là xác định tư

cách tồn tại của ĐTNT trong tiểu thuyết và truyện ngắn. Có thể khái quát kết quả

nghiên cứu về vấn đề này thành hai xu hướng cơ bản: ĐTNT với tư cách là một kỹ

thuật, một thủ pháp của nhà văn trong xây dựng tác phẩm và ĐTNT với tư cách là

một dạng lời thoại, được nhân vật sử dụng để thực hiện sự giao tiếp.

Tiêu biểu cho xu hướng thứ nhất là quan điểm của hai tác giả Wiliam Flin

Thrall và Mario Klarer. Trong cuốn A handbook to literature (Cẩm nang văn học)

tác giả Wiliam Flin Thrall nhìn nhận ĐTNT chỉ là một kỹ thuật, trong đó, luồng suy

nghĩ của một nhân vật trong một tiểu thuyết hoặc truyện ngắn được bộc lộ. Nó ghi

lại trải nghiệm cảm xúc bên trong của nhân vật trên từng cấp độ hoặc là sự phối

hợp nhiều cấp độ tình cảm. Theo ông, ĐTNT không phải là lời thoại mà là một hình

thức phi thoại (non - verbalize), được dùng để diễn đạt cảm giác hoặc tình cảm

không diễn tả bằng lời [131, tr.243]. Thống nhất với quan điểm này, Mario Klarer

cũng khẳng định ĐTNT là một kỹ thuật miêu tả trong đó một nhân vật được đặc

trưng hoá riêng biệt bằng suy nghĩ của chính nhân vật đó mà không có thêm bất cứ

lời bình luận nào. Nó bị chi phối bởi tâm lý và liên quan đến luồng suy nghĩ của

nhân vật [127, tr.142]. Như vậy, ĐTNT đã được nhìn nhận như một cách thức, một

thủ pháp của nhà văn để biểu đạt suy nghĩ, tình cảm, cảm giác bên trong, ngầm ẩn

của nhân vật. ĐTNT không được xem là dạng lời thoại do nhân vật trực tiếp nói ra

để thực hiện sự giao tiếp trong một ngữ cảnh nhất định.

Tiêu biểu cho xu hướng thứ hai là cách nhìn nhận của nhà ngôn ngữ học

V.B. Kasevich trong giáo trình Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương.

Khi nói về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, ông đã nhận ra sự tồn tại của

những kiểu tư duy mà ở đó hình thức lời nói được sử dụng nhưng dường như đã bị

10

rút gọn: nó chỉ giữ lại một số những yếu tố quan trọng nhất, còn tất cả những cái gì

là “tất nhiên” thì đều không được thể hiện bằng lời nói [51, tr.18]. Từ đó, dẫn đến

một thực tế thường gặp trong đối thoại là ở những tình huống khá quen thuộc thì

những cái được coi là đã biết sẽ được bỏ qua, không được người nói và người nghe

đưa vào trong phát ngôn của mình. Điều đặc biệt là tác giả Kasevich cho rằng: quá

trình “ép nén” các phương tiện ngôn ngữ như thế lại càng hiển nhiên hơn trong

trường hợp các độc thoại tưởng tượng, hoặc “độc thoại cho mình”, tức là khi

không cần phải lo lắng để đạt được sự lĩnh hội từ phía người đối thoại [51, tr.18].

Như vậy, ông đã khẳng định: cả lời đối thoại và lời độc thoại đều có thể có những

đặc điểm hành chức giống nhau để tiến hành giao tiếp có hiệu quả. Không chỉ thừa

nhận sự tồn tại của ĐTNT, Kasevich còn chỉ ra một trong những quy luật quan

trọng của nó: ĐTNT là dạng lời nói không chịu sự chi phối từ một người nghe phân

biệt như đối thoại. Xem xét ĐTNT trong mối quan hệ với người nghe, Kasevich đã

khẳng định ĐTNT là một dạng lời thoại được con người sử dụng để giao tiếp.

Vấn đề thứ hai mà các nhà nghiên cứu nước ngoài quan tâm khi tìm hiểu về

ĐTNT trong tiểu thuyết là xác định ĐTNT, phân biệt nó với khái niệm dòng ý thức.

Hai khái niệm này có mối quan hệ gần gũi với nhau, ranh giới giữa chúng trong tiểu

thuyết nhiều khi khó phân biệt. Tác giả Tamara Motilova trong bài Độc thoại nội

tâm và dòng tâm tư đã đồng nhất hai khái niệm và cho rằng:

Nó xuất hiện như diễn từ không biểu đạt thành lời của các nhân vật hoặc như diễn

từ của tác giả, nhân danh mình mà nói, nhưng có thể coi như đã mượn từ vựng và

giọng điệu của nhân vật; hoặc như đối thoại bên trong, ở đó, giọng nói của nhân

vật bị xẻ làm đôi thành hai giọng phân biệt và đối nghịch; nó xuất hiện dưới hình

thức một chuỗi kết luận có tổ chức cũng như qua những ý kiến mơ hồ và hỗn loạn

[dẫn theo 25, tr. 69-70].

Theo quan niệm trên, tác giả Motilova đã chỉ ra những hình thức tồn tại của

ĐTNT. Thứ nhất, đó là dạng ĐTNT có sự lai ghép, vay mượn giữa ngôn ngữ nhà

văn và ngôn ngữ nhân vật. Thứ hai, đó là những lời đối thoại bên trong của nội tâm

nhân vật. Thứ ba, đó là những ý kiến mơ hồ và hỗn loạn. Hình thức cuối cùng

11

(những ý kiến mơ hồ và hỗn loạn) mà Motilova nói đến thực ra chính là dòng ý

thức.

Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu Xô viết trước đây lại hướng đến sự

phân biệt giữa ĐTNT và dòng ý thức. Phân tích việc sử dụng hai loại phương tiện

này trong tác phẩm của Stendhal và Tolstoi, M.B. Khrapchenko chỉ rõ:

Tính chất phân tích của lời lẽ nội tâm nhân vật trong Đỏ và đen là cho lời lẽ đó có

một số đặc điểm của sự tề chỉnh, duy lý chặt chẽ, đôi khi đầy bi tráng. Theo ý nghĩa

này, độc thoại nội tâm trong các tác phẩm của Stendhal khác biệt khá cơ bản với

lời lẽ nội tâm các nhân vật của Tolstoi, lời lẽ này được xây dựng như thể là sự hiển

hiện dòng tư tưởng tự nhiên, tuỳ tiện, sự vận động của tình cảm”[dẫn theo 25,

tr.79]

M.B. Khrapchenko đã dựa vào cấu trúc của “lời lẽ nội tâm nhân vật” để chỉ

ra sự phân biệt. Lời lẽ nội tâm trong tác phẩm Stendhal có cấu trúc tề chỉnh, duy lý

chặt chẽ, tức là có tính tổ chức rõ rệt, còn trong tác phẩm của Tolstoi, nó là một

dòng tư tưởng tự nhiên, tuỳ tiện, tuôn chảy miên man theo sự vận động của tình

cảm và tâm lý nhân vật. Nói cách khác, đó chính là sự khác biệt cơ bản giữa lời

ĐTNT và dòng ý thức.

Theo một xu hướng khác, nhà nghiên cứu Jean Cardot quan niệm: ĐTNT khi

đạt tới một cách viết ngày càng mang tính chất điện tín, ngắt quãng; sự đứt đoạn

của dòng chảy ngôn từ: những gián đoạn thường xuyên ám chỉ tình trạng thiếu

vắng lời đáp lại [dẫn theo 25, tr.83], sẽ trở thành dòng ý thức. Khi đó, ĐTNT trong

tiểu thuyết không thể lẫn với độc thoại của kịch vì tính chất phi logic và rời rạc của

phát ngôn. Ông không đồng nhất hai khái niệm ĐTNT và dòng ý thức nhưng cũng

không chỉ ra sự phân biệt giữa chúng. Trong quan niệm của ông, dòng ý thức là

mức độ phát triển cao nhất của ĐTNT. Thư viện điện tử questia.com cũng cho

rằng:“Các nhà văn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã đi tìm các khả năng mới của

ĐTNT, tạo ra hiệu quả về tính chất phi võ đoán và tự do của độc thoại. Đầu thế kỷ

20, hình thức ĐTNT có vẻ hoàn toàn tuỳ tiện, được xử lý đến mức cực đoan: ĐTNT

cũng chính là dòng ý thức của nhân vật”…[102, ngày 16/12/2007].

12

Hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu ở nước ngoài đều xem ĐTNT là một

khái niệm phân biệt với độc thoại của kịch và với dòng ý thức, mặc dù giữa chúng

có những mối quan hệ, những điểm giống nhau nhất định. Đây chính là tiền đề lý

thuyết quan trọng nhất để chúng tôi triển khai sự nghiên cứu về lời ĐTNT nhân vật

trong tác phẩm văn học.

2.1.2. Những kết quả nghiên cứu về độc thoại nội tâm ở trong nước

Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu chuyên biệt về ĐTNT có số lượng rất

hạn chế. Tuy nhiên, các tác giả như: Đặng Anh Đào, Nguyễn Thái Hoà, Trần Đình

Sử đều có những sự chú trọng nhất định đến ĐTNT khi nói về sự đổi mới thi pháp

truyện và tiểu thuyết hiện đại.

Tác giả Đặng Anh Đào trong Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây

hiện đại đã dành hẳn mục VII, phần I với hơn 16 trang để nói về ĐTNT và dòng

tâm tư, chỉ ra sự khác nhau giữa chúng với độc thoại. Không đi vào phân biệt hai

khái niệm ĐTNT và dòng tâm tư (dòng ý thức), nhưng tác giả Đặng Anh Đào đã

phân tích và nêu lên những đặc điểm quan trọng của ĐTNT. Khi phân biệt độc thoại

và ĐTNT, bà khẳng định: “Độc thoại được nói đến ở kịch, đôi khi trong tiểu thuyết,

trong khi khái niệm ĐTNT chỉ dùng trong tiểu thuyết” [25, tr.74]. Giữa hai khái

niệm này có những điểm giống nhau: chúng đều là sự tái hiện những ý nghĩ của

nhân vật, đều có tính chất hướng nội. Điểm phân biệt mà tác giả Đặng Anh Đào chỉ

ra đó là: độc thoại gắn liền với hành động hơn, thiên về hành động hơn so với

ĐTNT. Còn ĐTNT vào dòng tâm tư thì thường có tính chất kìm hãm hành động,

thiên về xu thế miêu tả hơn là tự sự rõ nét hơn. Thế giới bên trong là đối tượng miêu

tả chủ yếu của ĐTNT [25, tr.74].

Chú trọng đến việc nhận diện ĐTNT trong hệ thống ngôn từ của tác phẩm

văn học, tác giả của Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại đã đưa ra

những luận điểm cụ thể. Bà xác định, ĐTNT thuộc phạm vi ngôn từ của nhân vật,

tất nhiên, cũng không thể đối lập hoàn toàn nó với ngôn từ người kể chuyện, nhất là

trong những trường hợp người kể chuyện ở ngôi thứ nhất hoặc nhường lời cho nhân

vật. “Điều kiện để loại câu nửa trực tiếp này trở thành ĐTNT hoặc dòng tâm tư là:

13

nó phải khoác giọng điệu và từ vựng của nhân vật, dù chủ thể vẫn nhân danh chính

thức là người kể chuyện”, “ở đó giọng nói của người kể chuyện phải lẫn với giọng

điệu của nhân vật ngay tại cái vỏ ngôn từ”[25, tr.70]. Còn đối với ĐTNT được biểu

hiện trực tiếp thì lời phát ngôn được đặt ở ngôi thứ nhất (ta) hoặc ngôi thứ hai

(tương đương với mày), giọng điệu và từ vựng của nhân vật phải đi thẳng vào văn

bản. Sự chú ý của tác giả Đặng Anh Đào đến ngôi nhân xưng của ĐTNT cho thấy,

bà đã xét ĐTNT trong mối quan hệ giữa lời nói với chủ thể phát ngôn,.

Nghiên cứu về Những vấn đề thi pháp của truyện, tác giả Nguyễn Thái Hoà

đi vào miêu tả những khái niệm cơ sở của thi pháp học thể loại truyện (trong đó có

ĐTNT và dòng ý thức) từ góc nhìn ngôn ngữ học. Ông xem ĐTNT cũng là một

hình thức đối thoại. Nhân vật tự phân thân thành vai nói và vai nghe để thực hiện

quá trình trò chuyện với chính bản thân mình. Do vậy, tác giả Nguyễn Thái Hoà đã

nhận ra những biểu hiện mang ý nghĩa ngữ dụng về bản chất hành động của dạng

lời nói này. Khi chỉ ra các dấu hiệu nhận biết ĐTNT, ông thường dựa vào những

phương tiện, những cấu trúc thể hiện các loại hành động ngôn ngữ khác nhau trong

lời nói của nhân vật.

Những dấu hiệu đánh dấu độc thoại nội tâm của nhân vật thường thấy là: “(X) tự

hỏi rằng, cho rằng như thế là…có sao không nhỉ” v.v… có thể gọi là độc thoại lập

luận; “Chao ơi! Mình mà…”, “Khốn thay, mình lại…”, “Còn gì hơn với mình…”,

gọi là độc thoại cảm thán; “giá như, hồi đó, nhớ lại hồi xưa” v.v… có thể gọi là

độc thoại hồi ức; “một ngày nào đó mình sẽ…”, “ước gì có…” v.v… là độc thoại

cầu khiến v.v… [43, tr.78]

Trong trường hợp có sự chập đôi giữa ĐTNT của nhân vật với lời kể của

người kể chuyện, ranh giới giữa chúng sẽ trở nên rất khó xác định. Tác giả Nguyễn

Thái Hoà cho rằng đó là một thủ pháp của truyện và người ta thường gọi đó là lời

kể gián tiếp tự do. Ông không đồng nhất hai khái niệm ĐTNT và truyện ngắn tâm tư

(dòng ý thức) và chỉ ra sự khác nhau giữa chúng. Có chung nguồn gốc là kể lại ý

nghĩ và cảm xúc của nhân vật ở ngôi thứ ba nhưng ĐTNT chỉ xuất hiện trong một

số tình huống đối thoại nhất định còn truyện kể tâm tư (psycho-narration) là dòng

chảy triền miên của ý thức, là giọng chủ đạo của lời kể.

14

Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng đã đưa ra những nhận xét, kiến giải

bước đầu về ĐTNT. Bản chất giao tiếp của ĐTNT được khẳng định rõ ràng với luận

điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu trong giáo trình Đại cương ngôn ngữ học, tập 2,

Ngữ dụng học. Nói đến sự trao lời của vận động hội thoại, ông phân tích cả ở lời đối

thoại và lời ĐTNT. Sự trao lời trong đối thoại diễn ra giữa Sp1 (vai nói) và Sp2 (vai

nghe) - là hai người khác nhau. Còn ở những trường hợp độc thoại, độc thoại không

phải đơn thoại và là độc thoại đời thường không phải trên sân khấu, thì người nói

chỉ là một nhưng sự trao lời vẫn diễn ra nhờ vào sự phân đôi nhân cách: nhân cách

nghe và nhân cách nói [15, tr.206]. Ví dụ ông dẫn để phân tích là ĐTNT của nhân

vật Hàn trong truyện ngắn Một truyện xuvơnia (Nam Cao): Hắn tự bảo: “Cuốn tiểu

thuyết của đời ta bắt đầu…” Ở thời điểm độc thoại, Hàn nghe và Hàn nói có sự

khác biệt nhất định. Với quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu, những nhân tố cơ bản

của quá trình giao tiếp: vai nói, vai nghe được xác định cả trong lời ĐTNT.

Một số luận văn, luận án như: Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện

của Nam Cao (Lưu Thị Oanh); Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (Các hình

thức thoại dẫn) (Mai Thị Hảo Yến); Khảo sát các hình thức dẫn thoại (trong truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp) (Nguyễn Thị Thanh Huyền), dù nghiên cứu các đối tượng

thuộc những phạm vi khảo sát khác nhau nhưng đều có một phần nội dung đề cập

đến ĐTNT với tư cách là một dạng lời thoại thực sự của nhân vật. Xuất phát từ

quan điểm: “ĐTNT là dòng suy nghĩ của con người thể hiện những tâm tư, tình

cảm, trạng thái tâm lý thầm kín, không phát ra thành lời”, Lưu Thị Oanh gọi tất cả

những đoạn văn có sự xuất hiện của suy nghĩ bên trong của nhân vật là những đoạn

ĐTNT. Trong đó có thể là những phát ngôn thực sự mà nhân vật trực tiếp nói ra,

cũng có thể là những đoạn văn xen lẫn lời độc thoại với lời dẫn chuyện… Luận văn

này xem xét những đoạn văn ĐTNT - một phần trích bất kỳ trong văn bản phản ánh

dòng suy nghĩ chảy âm thầm trong óc con người. Từ đó, ĐTNT được phân tích trên

những phương diện đặc trưng của ngữ pháp văn bản, với những vấn đề như: cấu

trúc hình thức của đoạn văn ĐTNT (diễn dịch, quy nạp, đề thuyết, liệt kê); cách

thức nhập đề, cách thức kết thúc đoạn văn độc thoại. Đồng thời với việc khảo sát

15

tần số xuất hiện, tác giả luận văn cũng nêu lên giá trị biểu hiện của các đoạn độc

thoại nội tâm: khẳng định chủ đề và tư tưởng tác phẩm, khẳng định phong cách tác

giả về mặt ngôn ngữ. Có thể thấy, tác giả Lưu Thị Oanh đã đi từ cấu trúc của đoạn

văn ĐTNT để xác định ý nghĩa, vai trò nghệ thuật của nó đối với những vấn đề cơ

bản của phong cách học.

Hai tác giả Mai Thị Hảo Yến và Nguyễn Thị Thanh Huyền lại khai thác một

hướng đi khác. Mục đích của họ là nghiên cứu về lời dẫn thoại trong truyện ngắn

một tác giả cụ thể. Muốn phân lập các hình thức dẫn thoại thì vấn đề đặt ra trước hết

là phải xác định các dạng lời thoại được sử dụng trong tác phẩm. Đó là những lời

đối thoại giữa một người nói với một người nghe phân biệt, và đối thoại nội tâm

cũng là một dạng lời thoại, có những đặc điểm dẫn thoại riêng. Đặc biệt, Mai Thị

Hảo Yến còn chú ý đến các loại hành động ngôn ngữ xuất hiện ở lời dẫn của ĐTNT.

Mặc dù không chỉ ra một cách trực tiếp, nhưng sự phân tích của tác giả đã cho thấy:

lời ĐTNT có thể ứng với việc sử dụng những hành động ngôn ngữ nhất định. Chẳng

hạn: “ĐTNT trực tiếp ứng với hành động ngôn ngữ “hỏi”trong truyện ngắn Nam

Cao có bốn trường hợp” [121, tr.188]; “ĐTNT ứng với hành động ngôn ngữ “đánh

giá” trong truyện ngắn Nam Cao có ba trường hợp” [121, tr.189]… Các bảng

thống kê về các hành động ngôn ngữ được dẫn ở ĐTNT trực tiếp (trang 193), ở

ĐTNT gián tiếp tự do (trang 209) và ở ĐTNT trực tiếp tự do (trang 203) thực ra

chính là sự liệt kê những hành động ngôn ngữ được sử dụng trong lời độc thoại qua

truyện ngắn Nam Cao. Dễ dàng nhận thấy ở ba bảng thống kê này số lượng hành

động ngôn ngữ chỉ dừng lại ở một số loại hạn chế chứ không phong phú, đa dạng

như lời đối thoại.

Những công trình, bài viết nói trên đều đã đưa ra những nhận xét, đánh giá

khác nhau góp phần làm sáng rõ khái niệm, đặc điểm cũng như sự nhận diện về

ĐTNT. Những kết quả này giúp chúng tôi có được cái nhìn khái quát, tổng hợp để

từ đó xác định hướng nghiên cứu cụ thể của luận án.

2.2. Hướng nghiên cứu độc thoại nội tâm của luận án

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!