Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
KHOA LUAÄT ÑAÏI HOÏC LUAÄT
ÑAÏI HOÏC LUND TP. HOÀ CHÍ MINH
LEÂ VIEÄT TUAÁN
- trong ñieàu kieän hoäi nhaäp kinh teá quoác teá -
LUAÄN VAÊN THẠC SĨ LUAÄT HỌC
Chuyeân ngaønh: Luaät Quoác Teá
Maõ soá: 60 38 60
Ngöôøi höôùng daãn:
GS. Hans-Henrik Lidgard TS. Ñinh Vaên Thanh
Tp. Hoà Chí Minh - 2004
2
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Thay: Bằng:
- Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ (được Tổ chức thương mại thế giới
ngày 15/4/1994)
- Hiệp định TRIPs
- Công ước về bảo hộ sở hữu công
nghiệp (ký tại Paris năm 1883)
- Công ước Paris
- Tổ chức thương mại thế giới - Tổ chức WTO
- Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ - Tổ chức WIPO
- Ủy ban thường trực về pháp luật nhãn
hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp
và chỉ dẫn địa lý của Tổ chức WIPO
- SCT
3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1 . KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 11
1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 11
1.2 KHÁI NIỆM CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 18
1.2.1 Khái niệm chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định TRIPs 18
1.2.2 Khái niệm chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam 23
1.3 TÍNH ĐẶC THÙ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 26
1.3.1 Chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý 26
1.3.2 Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý 28
1.4 MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ CHỈ DẪN ĐỊA
LÝ 29
1.4.1 Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá 30
1.4.2 Sự khác biệt và xung đột giữa quy định về nhãn hiệu hàng
hoá và chỉ dẫn địa lý 31
CHƯƠNG 2 . BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 34
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 34
2.1.1 Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ
dẫn địa lý 34
2.1.2 Ý nghĩa của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý 39
2.2 XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN
ĐỊA LÝ 41
2.3 HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 44
4
2.4 CÁC BIỆN PHÁP THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 48
2.4.1 Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
theo điều ước quốc tế 48
2.4.2 Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
theo pháp luật Việt Nam 54
CHƯƠNG 3 . NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 61
3.1 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LÝ VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA
LÝ Ở VIỆT NAM 61
3.1.1 Đối với khái niệm chỉ dẫn địa lý 61
3.1.2 Đối với bảo hộ chỉ dẫn địa lý 63
3.2 MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CẦN ĐẢM BẢO KHI HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 66
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 69
3.3.1 Kiến nghị nhằm làm rõ một số vấn đề có tính lý luận về khái
niệm và bảo hộ chỉ dẫn chỉ dẫn địa lý 69
3.3.2 Kiến nghị đối với hoạt động xây dựng pháp luật về bảo hộ
chỉ dẫn địa lý 78
3.3.3 Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu
công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý 80
KẾT LUẬN 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu của đề tài
Thế giới hiện nay đã và đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn
của một nền kinh tế dựa vào tri thức của con người. Chính từ những thành tựu
khoa học kỹ thuật đã làm cho thế giới dường như nhỏ hẹp hơn và các quốc gia
gắn bó chặt chẽ với nhau nhiều hơn. Một nhu cầu đã trở nên tất yếu ở mỗi quốc
gia trong quá trình tồn tại và phát triển là đều phải thiết lập các mối quan hệ quốc
tế dưới những mức độ nhất định.
Thực hiện tinh thần “đổi mới” từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra
và những tư tưởng chỉ đạo tại các Đại hội Đảng lần VII, VIII, IX Việt Nam đã
không ngừng đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó đã giúp Việt
Nam phá vỡ được hàng rào bao vây, cấm vận để thay vào đó bằng những sự thiết
lập những mối quan hệ với rất nhiều nước trên thế giới. Việt Nam dần muốn
nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, từ một nước nhận viện trợ trở
thành một đối tác thương mại của các nước trong khu vực và thế giới. Quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức to
lớn, đòi hỏi nhà nước Việt Nam phải tiến đến hoàn thiện hệ thống pháp lý không
chỉ để đáp ứng điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trong nước mà còn đảm
bảo tính phù hợp với pháp luật quốc tế. Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ chỉ dẫn địa lý nói riêng là một đòi hỏi
tất yếu trong điều kiện kinh tế thế giới đang chuyển sang giai đoạn thống trị của
nền kinh tế trí thức.
Từ vài chục năm trở lại đây, vấn đề sở hữu trí tuệ ngày càng đóng một vai trò
quan trọng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Hầu hết các quan hệ hợp tác
quốc tế, điều ước thương mại song phương hay đa phương đều chứa đựng những
nội dung liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Thực thi và bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đã trở thành nội dung cơ bản được các nước ký kết trong hàng loạt các điều
ước quốc tế đa phương, như: Công ước Paris, Công ước Berne, Thoả ước Marid,
Hiệp định TRIPs,… Không dừng lại ở đấy, vấn đề sở hữu trí tuệ đã trở thành một
trong những điều kiện quan trọng có tính chất bắt buộc không thể tách rời ra khỏi
các tổ chức quốc tế như WTO, EU, APEC, ASEAN,…
Trên thế giới, vấn đề chỉ dẫn địa lý với tư cách là đối tượng bảo hộ của quyền
sở hữu công nghiệp đã được đề cập đến trong nhiều điều ước đa phương, trong
6
đó đáng kể nhất là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (từ đây viết tắt là TRIPs) – kết quả của vòng đàm phán
Uruguay vào tháng 12/1993. Ở Việt Nam, vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý được quy
định tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 và chỉ dẫn địa lý đã trở
thành một đối tượng bảo hộ khá mới mẻ của quyền sở hữu công nghiệp đối với
chúng ta. Chính vì thế, hàng loạt các vấn đề nảy sinh xoay quanh bảo hộ chỉ dẫn
địa lý, bắt đầu từ sự đảm bảo tính “đầy đủ” mà Tổ chức thương mại thế giới (từ
đây viết tắt là WTO) yêu cầu Việt Nam đáp ứng, cho đến khả năng bảo hộ “hữu
hiệu” chỉ dẫn địa lý trong thực tế; hay nhu cầu đòi hỏi từ phía xã hội của một
quốc gia nông nghiệp với nhiều sản phẩm mang nét đặc trưng của một khu vực
địa lý cần được bảo hộ không chỉ trong nước mà còn trên thị trường thế giới. Đặc
biệt gần đây dư luận trong nước đang phản ứng trước việc nhiều sản phẩm của
các quốc gia khác lưu thông trên thị trường lại mang chỉ dẫn là tên gọi địa
phương hay khu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam, nước mắm Phú Quốc được chế
tạo tại Thái Lan (Made in Thailand) là một ví dụ điển hình.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở
hữu công nghiệp nói riêng đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu nhằm đáp ứng các đòi hỏi đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Chỉ dẫn địa lý với tư cách là một trong những đối tượng bảo hộ của quyền sở
hữu công nghiệp, vì vậy hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ
dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một yêu cầu tất yếu
khách quan.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở Việt Nam
Sở hữu trí tuệ là một vấn đề khá mới mẻ được nhiều người quan tâm trong
thời gian gần đây, đối với đối tượng chỉ dẫn địa lý được chúng ta quy định lần
đầu tiên vào năm 2000 tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP của Chính phủ đã và đang
thách thức các nhà nghiên cứu. Gia nhập vào Tổ chức WTO và Hiệp định TRIPs
lại càng làm vấn đề có tính thời sự hơn.
Đã có một số bài viết, tham luận đã đề cập đến chỉ dẫn địa lý như đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp cần được bảo hộ. Đặc biệt, trong hai ngày 7-
8/10/2003 tại Hà Nội đã diễn ra ”Hội thảo EU - ASEAN về chỉ dẫn địa lý: cách
thức thâm nhập thị trường”, với nội dung đề cập đến cách thức xây dựng, phát
triển và giải quyết các vấn đề pháp luật liên quan đến chỉ dẫn địa lý; vai trò của
cộng đồng các nhà sản xuất trong việc bảo vệ, phát triển sản phẩm mang tên gọi
xuất xứ, chỉ dẫn địa lý. Sự kiện thật sự đã rất được sự chú ý từ phía báo chí cũng
7
như các nhà chức trách, hàng loạt các bài phỏng vấn, đưa tin liên quan đến nội
dung Hội thảo cũng như thực trạng chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam được đăng tải trên
mạng. Tuy nhiên, thực tế đây vẫn là một đối tượng rất mới mẻ kể cả dưới góc độ
pháp lý cũng như nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Rất nhiều công trình nghiên
cứu đến quyền sở hữu trí tuệ (quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp) dưới
phạm vi rộng, cũng như nghiên cứu từng đối tượng dưới phạm vi hẹp khác nhau
nhưng vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách trực tiếp đối với vấn đề hoàn
thiện pháp luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện Việt Nam đang cố gắng gia
nhập WTO và bảo đảm hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ “đầy đủ
và hữu hiệu” đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TRIPs. Vì vậy, tác giả đã xác định
đây là hướng nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài
Đề tài có ba mục đích chính:
- Một là: tìm hiểu quy định và yêu cầu của hệ thống pháp luật bảo hộ chỉ
dẫn địa lý theo Hiệp định TRIPs.
- Hai là: tìm hiểu thực trạng pháp lý về bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam
hiện nay.
- Ba là: kiến nghị nhằm xây dựng hệ thống pháp luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý
tại Việt Nam một cách đầy đủ và hữu hiệu.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế nhằm hướng đến:
Một là, thúc đẩy quá trình gia nhập tổ chức WTO của Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán gia nhập Tổ chức WTO, một trong những
điều kiện cần để được kết nạp là phải thi hành Hiệp định TRIPs, theo đó chúng ta
phải có một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ “đầy đủ và hữu hiệu”. Để được
coi là “đầy đủ”, việc bảo hộ phải được tiến hành với tất cả các đối tượng sau đây:
quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, tên thương
mại, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin bí
mật, giống cây trồng và chống cạnh tranh không lành mạnh. Chỉ dẫn địa lý là
một trong các đối tượng mà Hiệp định TRIPs được WTO yêu cầu các nước thành
viên phải tiến hành bảo hộ.
8
Hai là, tạo tiền đề thúc đẩy mạnh hơn sự hợp tác về sở hữu trí tuệ trong
khu vực ASEAN cũng như với các quốc gia khác trên thế giới.
Nhằm mục đích tăng cường hơn nữa sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia
trong khu vực trong việc trao đổi thông tin, nhân lực, kinh nghiệm cũng như cam
kết dành cho công dân của nhau những thuận lợi trong việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ, tháng 12/1995 Việt Nam cùng với các nước thành viên khác của tổ chức
ASEAN đã ký kết Hiệp định khung ASEAN về hợp tác sở hữu trí tuệ. Trong
Hiệp định này đã xác định phạm vi hợp tác bao gồm các đối tượng: quyền tác giả
và quyền liên quan, bằng sáng chế và kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá
và chỉ dẫn địa lý, thông tin mật và sơ đồ mạch tích hợp. Chính vì vậy, hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế cũng chính là điều kiện tạo nên sự thuận lợi cho quá trình hợp tác
một cách toàn diện trong khu vực ASEAN.
Ba là, thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Việt Nam đã ký kết các Hiệp định có nội dung liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ như Hiệp định Việt Nam - Thụy Sỹ vào tháng 7/1999 và Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ vào tháng 7/2000, trong đó các bên cam kết dành sự bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ cho công dân của nhau theo các tiêu chuẩn tối thiểu
tương tự như tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPs. Từ năm 1996 - năm chính thức
phát động các cuộc đàm phán với WTO, Thụy Sỹ và sau đó là Hoa Kỳ - chúng ta
đã xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với năm đối tượng: quyền tác
giả và quyền liên quan, sáng chế và giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa (một loại chỉ dẫn địa lý đặc biệt).
Nhiệm vụ của đề tài
Trên cơ sở các mục đích trên, đề tài Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi cần giải
quyết được các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ chỉ
dẫn địa lý. Đồng thời trong đó làm rõ sự xung đột và đề ra hướng giải
quyết xung đột giữa chỉ dẫn địa lý với nhãn hiệu hàng hoá.
Hai là, làm rõ khái niệm bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Tìm hiểu các quy định
pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
địa lý cùng sự so sánh với các quy định trong Hiệp định TRIPs, các văn
9
bản hướng dẫn của Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ (từ đây viết tắt
là Tổ chức WIPO).
Ba là, tìm hiểu thực trạng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ
dẫn địa lý ở Việt Nam. Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với tên đề tài là Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn
địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả sẽ tập trung nhiều vào mục
đích hoàn thiện nhằm thoả mãn điều kiện “đầy đủ và hữu hiệu” mà Việt Nam
phải đáp ứng trong vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung và chỉ dẫn địa
lý nói riêng. Do vậy, đối tượng chủ yếu được dùng để so sánh với các quy định
pháp luật Việt Nam đối với vấn đề này là các quy định trong Hiệp định TRIPs và
một số văn bản của Tổ chức WIPO. Nghiên cứu sẽ xoay quanh các vấn đề có tính
lý luận và thực trạng pháp lý về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
địa lý.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, có thể xem Châu Âu
là nơi có những quốc gia đi đầu trong vấn đề này và đồng thời đây cũng là một
vấn đề bảo hộ rất quan trọng đối với họ, những quốc gia được xem là nhà sản
xuất lớn nhất thế giới về rượu vang và rượu mạnh (chiếm khoảng 60% thế giới
và tổng giả trị xuất khẩu vào khoảng 7910 tỷ euro [2, 3]. Chính vì vậy tác giả đã
xem xét thực tiễn bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở các quốc gia trong cộng đồng chung
Châu Âu, qua đó rút ra được những kinh nghiệm thực tiễn mà chúng ta có thể
tham khảo trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý
ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-LêNin, đề tài sử dụng các
phương pháp có tính truyền thống như miêu tả, phân tích, tổng hợp, hệ thống,…
Trong đó đặc biệt chú trọng đến phương pháp so sánh nhằm chỉ ra những vấn đề
tương đồng và khác biệt trong hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế về vấn đề
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, để từ đó tìm thấy được
phương hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này trong
tương lai.
5. Cơ cấu của luận văn