Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với dnv&n tại chi nhánh nhno & ptnt hà nội
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Khoá luận Tốt Nghiệp - 1 - Khoa NH-TC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức SX-KD, nhiều loại hình doanh nghiệp với
những quy mô, trình độ khác nhau là tất yếu. Trong đó các DNV&N có phần
đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Trong hơn 21 năm qua kể từ khi đổi mới năm 1986 đến nay các DNV&N đã
đóng góp rất đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước và giải quyết
được nhiều vấn đề lớn cho xã hội như: tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu ngay tại
địa phương, góp phần nâng cao dân trí và kỹ năng SX-KD, góp phần phòng
tránh các tệ nạn xã hội và đưa các chính sách xã hội vào cuộc sống.
Tuy nhiên, các DNV&N thường gặp phải một số khó khăn về trình độ
công nghệ, thiết bị quá lạc hậu, lao động thủ công nên sản phẩm khó cạnh
tranh với các doanh nghiệp lớn , trình độ quản lý còn hạn chế, SX-KD mang
tính tự phát, hoạt động kinh doanh chủ yếu theo thương vụ chạy theo phong
trào mà không có chiến lược phát triển nên dễ bị đổ bế đặc biệt về vốn. Các
DNV&N hoạt động chủ yếu dựa vào vốn chủ sở hữu rất nhỏ bé nhưng nhu
cầu sử dụng vốn lại lớn. Để các DNV&N có thể phát huy hết được năng lực
của mình thì Nhà nước và các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế… cần phải
có những biện pháp cụ thể nhằm giúp đỡ DNV&N vượt qua những những
khó khăn ấy. Các NHTM và các tổ chức tín dụng là kênh huy động vốn quan
trọng đối với DNV&N. Với quy mô lớn chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp
ở Việt Nam thì các ngân hàng ngày càng chú trọng và đặt mối quan tâm đến
việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N. Qua một thời
gian thực tập tại NHNo & PTNT Hà Nội thì em đã nhận thấy rằng việc nghiên
cứu về thực trạng chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N là cần thiết.
HIM MAKARA Lớp NH 45B
Khoá luận Tốt Nghiệp - 2 - Khoa NH-TC
Vì vậy em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
DNV&N tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội ”.
Cơ cấu của bài viết bao gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với
DNV&N của NHTM .
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại chi
nhánh NHNo & PTNT Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại
chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội.
HIM MAKARA Lớp NH 45B
Khoá luận Tốt Nghiệp - 3 - Khoa NH-TC
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong tổng số các doanh nghiệp, ở những nước phát triển cũng như các
nước đang phát triển số lượng các DNV&N chiếm một tỷ lệ khá cao và là lực
lượng sản xuất kinh doanh quan trọng cung cấp một lượng lớn hàng hoá và
dịch vụ cho xã hội. Hiện nay trên thế giới chưa có một chuẩn mực thống nhất
giữa các nước về việc xác định đâu là DNV&N, đâu là doanh nghiệp lớn
nhưng ở nhiều nước DNV&N được dùng với một khái niệm tương đối để chỉ
những doanh nghiệp có quy mô về vốn, về số lượng lao động không lớn.
Điểm chung ở các nước là không có nước nào quy định các yếu tố về công
nghệ, về quản lý và chất lượng sản phẩm. Mặc dù có những khác biệt nhất
định giữa các nước về quy định các tiêu thức phân loại DNV&N song khái
niệm chung nhất về các DNV&N được định nghĩa như sau: “ Doanh nghiệp
vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh
doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn
nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng
thu được trong từng thời kỳ theo quy định của mỗi quốc gia”.
Một DNV&N là doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động
hay doanh thu. DNV&N được chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó
là: Doanh nghiệp siêu nhỏ( micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
HIM MAKARA Lớp NH 45B
CHƯƠNG
Khoá luận Tốt Nghiệp - 4 - Khoa NH-TC
Từ khái niệm DNV&N “ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người ” thì cho thấy tuyệt
đại đa số doanh nghiệp Việt Nam nằm trong bảng .
• Các tiêu thức phân loại DNV&N
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế Giới: doanh nghiệp siêu nhỏ
là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ là
doanh nghiệp có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người còn doanh
nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước người ta
có tiêu chí riêng để xác định DNV&N của riêng nước mình.
Ở Việt Nam, không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp
có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình hàng
năm dưới 300 người được coi là DNV&N ( không có tiêu chí xác định cụ thể
đâu là doanh nghiệp siêu nhỏ, đâu là nhỏ, đâu là vừa).Văn bản luật đầu tiên
quy định thống nhất tiêu chí xác định DNV&N là công văn số 681/CP-KTN
ban hành ngày 20/6/1998. Theo đó, DNV&N là những doanh nghiệp có vốn
điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Thường khi nói đến DNV&N phải nói đến đặc điểm đầu tiên để phân
biệt với doanh nghiệp lớn đó là qui mô ( vốn, công nhân) và phạm vi hoạt
động của nó .
Ở Đài Loan, loại DNV & N tối thiểu có từ 5-10 công nhân, vốn trung
bình là 1,6 triệu USD ( tương đương 4 triệu NT Đài Loan) là rất phổ biến.
Tuy mang cái tên khiêm tốn “ vừa và nhỏ”, song những đóng góp của các xí
nghiệp này đối với nền kinh tế quốc dân là rất quan trọng.
Ở Nhật Bản, qui mô của DNV&N được qui định trong luật cơ bản về
DNV&N.
HIM MAKARA Lớp NH 45B
Khoá luận Tốt Nghiệp - 5 - Khoa NH-TC
Bảng 1.1: Cách phân loại DNV& N của Nhật Bản
Ngành nghề DNV&N( SME) DN loại nhỏ
Vốn (triệu yên) Lao động (người) (người)
Công nghiệp khai
thác, chế tạo,… ≤ 100 < 300 ≤ 20
Thương nghiệp bán
buôn
≤ 30 < 100
≤ 5
Thương nghiệp bán
lẻ và dịch vụ
≤ 10 < 50
(Nguồn: Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số
nước trên thế giới - PTS. Đỗ Đức Định - 1999)
Ở Philippin, một nước ASEAN, láng giềng của Việt Nam thì tiêu
chuẩn phân loại các doanh nghiệp chỉ căn cứ vào tiêu chí vốn của doanh
nghiệp như sau:
Bảng 1.2: Cách phân loại ở Philippin
Loại doanh nghiệp Vốn (triệu Pêxô)
Lớn > 60
Vừa > 15 – 60
Nhỏ > 1,5 – 15
Vi nhỏ ( DN gia đình) < 1,5
(Nguồn: Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số
nước trên thế giới - PTS. Đỗ Đức Định- 1999)
1.1.2 Các đặc điểm của DNV&N so với doanh nghiệp lớn
Khả năng cạnh tranh chưa cao: Hầu hết các DNV&N vẫn chưa có
khả năng chịu được áp lực cạnh tranh từ quá trình tự do hoá và mở cửa ra thị
HIM MAKARA Lớp NH 45B
Khoá luận Tốt Nghiệp - 6 - Khoa NH-TC
trường thế giới vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến sự bất cập về khung
khổ luật pháp cho DNV&N cũng như việc triển khai thực thi các luật và chính
sách đặc biệt là ở cấp tỉnh. Bên cạnh đó, DNV&N lại gặp một số hạn chế nhất
định trong việc thâm nhập thị trường và phân phối sản phẩm: thiếu thông tin
về thị trường, khả năng marketing còn kém ngoài ra cũng do hạn chế về vốn,
các DNV&N thường sử dụng các công nghệ lạc hậu, sản xuất chủ yếu theo
hình thức thủ công thô sơ, tốn nguyên liệu đầu vào mà khối lượng sản phẩm
làm ra không nhiều, chất lượng thì chưa tốt. Một vấn đề khác nữa DNV&N
thường phải chịu thiệt thòi phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh
tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước khả năng tiếp xúc thương mại,
tiếp cận với thị trường trong nước và quốc tế rất khó khăn, điều kiện tiếp cận
với thông tin về văn bản, pháp luật thị trường còn tản mạn và hạn chế. Điều
đó dẫn đến sản phẩm tung ra thị trường không thể cạnh tranh nổi với các
doanh nghiệp khác.
Công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu: Công nghệ các DNV&N đang sử
dụng đã lạc hậu hàng chục năm có khi vài chục năm, điều này dẫn đến tình
trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu mã, chất lượng, ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng suất, hạ giá
thành sản phẩm. Công nghệ lạc hậu chiếm tỷ trọng rất lớn là đặc điểm khác
biệt của các DNV&N Việt Nam so với các DNV&N ở các nước công nghiệp
phát triển. Mặt khác tốc độ đổi mới công nghệ lại rất chậm. Không nói đến
Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ xét đến một số địa phương khác thì Hà Nội
được xem là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước nhưng quy
mô doanh nghiệp vẫn còn nhỏ, công nghệ lạc hậu. Trong khi các doanh
nghiệp trên thế giới đặt mối quan tâm hàng đầu vào thông tin về công nghệ,
tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật, thị trường cung cấp và tiêu thụ thì các
doanh nghiệp Việt Nam lại chỉ chủ yếu quan tâm đến cơ chế chính sách… rất
HIM MAKARA Lớp NH 45B
Khoá luận Tốt Nghiệp - 7 - Khoa NH-TC
ít doanh nghiệp quan tâm đến thông tin về kỹ thuật và công nghệ. Đối với các
DNV&N ở các nước phát triển, công nghệ trang bị và sử dụng thường rất hiện
đại, do đó khả năng sản xuất và chất lượng sản phẩm của họ khá cao và là một
bộ phận không thể tách rời của các doanh nghiệp lớn. Nhưng đối với Việt
Nam, một nước còn non trẻ đang bước những bước đi đầu tiên trong nền kinh
tế thị trường và nền kinh tế toàn cầu nên quá trình tiếp thu và đổi mới công
nghệ vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Theo thống kê trong những năm vừa qua
chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp có được công nghệ sản xuất tiên tiến mà
phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), chiếm 50%
công nghệ đang sử dụng là trung bình còn 42% còn lại là yếu kém sử dụng
công nghệ lạc hậu. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cho
thấy tuy số doanh nghiệp sử dụng máy vi tính chỉ lên đến hơn 60% nhưng có
11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ-LAN, số doanh nghiệp có
Website là rất thấp chỉ 2,16%.
Nguồn tài chính hạn chế: Vấn đề tiếp cận nguồn vốn là vấn đề đầu
tiên có ý nghĩa quyết định, các DNV&N còn gặp khó khăn không nhỏ nhất là
các khoản vay trung và dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác. Đặc biệt các khoản bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNV&N ; việc
đầu tư vào khu vực DNV&N do nhận thức chưa thông thoáng, cho nên bị hạn
chế rất nhiều. Mặt khác do nguồn vốn chủ sở hữu thấp, DNV&N hầu như
không đáp ứng được điều kiện để có mặt trên thị trường chứng khoán. Vì vậy
họ phải huy động vốn từ nhiều nguồn như: Ngân hàng, của bản thân doanh
nghiệp, gia đình bạn bè và chủ yếu dựa vào nguồn vay phi chính thức. Số
doanh nghiệp được vay từ nguồn vốn chính thức( Ngân hàng) là rất hạn chế
bởi một phần do bản thân doanh nghiệp và một phần do các định chế từ phía
ngân hàng. Một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển DNV&N (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 nghìn doanh nghiệp
HIM MAKARA Lớp NH 45B
Khoá luận Tốt Nghiệp - 8 - Khoa NH-TC
tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy quy mô vốn của các doanh nghiệp còn
nhỏ, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% số doanh
nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có số vốn dưới 5
tỷ đồng.
Qua cuộc điều tra, 66,95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn
về tài chính, 50,62% doanh nghiệp thường gặp khó khăn về mở rộng thị
trường; 41,74% doanh nghiệp gặp khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất;
25,22% doanh nghiệp gặp khó khăn về giảm chi phí sản xuất.
Về khả năng tiếp cận nguồn vốn của Nhà nước: chỉ có 32,38% số
doanh nghiệp cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu
là doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá; 35,24% số doanh
nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Trong
khi đó việc tiếp cận nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn chỉ có 48,65% số
doanh nghiệp khả năng tiếp cận; 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận;
30,43% số doanh nghiệp không tiếp cận được.
Trình độ quản lý còn thấp: Kỹ năng, nghiệp vụ quản lý cũng như tay
nghề của lực lượng lao động trong các DNV&N của Việt Nam được đánh giá
là thấp so với nhu cầu. Phần lớn số cán bộ, công nhân kỹ thuật trong các
DNV&N chưa qua đào tạo cơ bản chiếm khoảng 50%, quản lý tài chính trong
các doanh nghiệp này còn thiếu minh bạch, số liệu báo cáo chưa phản ánh
đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp.Theo số liệu thống kê của Cục
Phát triển DNV&N (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) có tới 55,63% chủ doanh nghiệp
có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp
có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sỹ
chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao
đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và
43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp
HIM MAKARA Lớp NH 45B