Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo.DOC
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình cải cách nền hành chính, Việt Nam đang đẩy mạnh
công cuộc cải cách khu vực dịch vụ công, trong đó có việc đổi mới cơ chế
quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức sự nghiệp công luôn được gắn với
vai trò chính yếu của Nhà nước. Mục đích chính của những cải cách trong
lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công tại Việt Nam thời gian qua không gì khác là
hướng tới bảo đảm nguồn ngân sách của Nhà nước dành cho lĩnh vực này
được sử dụng hiệu quả hơn, mọi người dân Việt Nam ngày càng được hưởng
những dịch vụ công tốt hơn, công bằng hơn, với chất lượng đảm bảo.
Nhưng thực tế hiện nay việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công vẫn
rất chậm, không đồng bộ và không bắt nhịp cùng với quá trình cải cách nền
kinh tế đất nước trong giai đoạn vừa qua. Việc Nhà nước quá ôm đồm và cơ
chế bao cấp chàn lan, tài trợ ngân sách chưa đúng mục đích và đúng đối tượng
và Nhà nước vẫn chưa có quan điểm rõ ràng về vai trò của mình và vai trò của
thị trường trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, đó những
nguyên nhân chính làm cho các đơn vị sự nghiệp công hoạt động không hiệu
quả.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, thì việc đảm bảo có một cơ chế
quản lý phù hợp để tạo điều kiện và phát huy hoạt động hiệu quả của các
TCSN công là yêu cầu cấp bách quá trình phát triển đất nước. Đặc biệt trong
lĩnh vực giáo dục & đào tạo, giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống
xã hội vì nó quyết định tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Thực trạng
nhức nhối của nền giáo dục Việt Nam hiện nay - nguyên nhân làm trì trệ sự
phát triển của Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, và để
có thể thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn mới này vai trò của giáo dục và đào tạo
1
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
là rất lớn. Việc chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
ngành là một vấn đề tất yếu mà Đảng và Nhà nước cần phải làm trong bối
cảnh hiện nay. Trước những yếu cầu đòi hỏi của quá trình đổi mới, Nhà nước
cần có một cơ chế quản lý mới phù hợp với tình hình thực tế, để có thể nâng
cao hiệu quả hoạt động của ngành, là một nhiệm vụ tất yếu phải làm. Trong
đó có việc cải cách, đổi mới cơ chế quản lý của ngành là một mấu chốt quyết
định, trong đó đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính.
Xuất phát từ thực tế và nhận thức được tầm quan trọng, của giáo dục &
đào tạo trong thời đại mới, trong khuân khổ chuyên đề thực tập em đã chon đề
tài nghiên cứu của mình là “Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp
công trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo”
Đề tài” Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo”, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận cho việc đổi mới
cơ chế quản lý và phân tích đánh giá các chủ trương, chinh sách của Nhà
nước cho việc đổi mới cơ chế quản lý các TCSN công trong lĩnh vực giáo dục
& đào tạo. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất một số khuyến nghị về cải cách.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài chỉ giới hạn đối với các TCSN
công trong lĩnh vực GD-ĐT, và tập trung vào cơ chế nhân sự và cơ chế tài
chính.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu kết hợp các phương pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so
sánh, bảng biều
Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Chuyên đề được trình bày trong ba
chương với các nội dung chính sau đây:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cho việc đổi mới cơ chế tổ chức và
quản lý các tổ chức sự nghiệp công.
2
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
Chương II: Thực trạng cơ chế tổ chức và quản lý các tổ chức sự nghiệp
công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Chương III: Một số kiến nghị giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý các
tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
3
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC
TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP CÔNG
1.1. Cơ sở lý thuyết về đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức sự nghiệp
công
1.1.1. Khái niệm hàng hóa và dich vụ công, vai trò của nhà
nước trong việc cung cấp loại hàng hóa này trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1. Khái niệm hàng hóa và dịch vụ công
Khái niệm hàng hóa và dịch vụ công hay vẫn được gọi là hàng hóa
công cộng, từ lâu đã có nhiều học giả nghiên cứu và có nhiều quan điểm về
nó. Ở Việt Nam, thuật ngữ hàng hóa công mới được đưa vào sử dụng và
nghiên cứu trong những năm gần đây.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về hàng hóa công cộng như
theo S.A.Sammuelson và W.D.Nordhaus thì cho rằng: Hàng hóa công cộng
là một loại hàng hóa có thể cho moi người ( trong một nước hoặc trong một
thành phố) được hưởng với một giá không lớn hơn cái giá đòi hỏi để cung cấp
nó cho một người. Việc hưởng thụ hàng hóa đó không thể chia cắt được và
không thể loại trừ ai. Đối chiếu với hàng hóa tư nhân, như bánh mỳ, nếu mà
một người đã tiêu dùng thì người khác không thể tiêu dùng được1
.
Có tác giả lại cho: Hàng hóa công cộng là hàng hóa mà khi một ai đó
tiêu dùng thì nó không làm giảm mức tiêu dùng hàng hóa đó của người khác,
là hàng hóa mà mọi người đều cần dùng, và khi nó đã được sản xuất ra thì
không thể ngăn cản người dân tiêu dùng hàng hóa đó ( an ninh, trật tự xã hội,
1 S.A.Sammuelson và W.D.Nordhaus - Kinh tế học tập 2, ĐH KTQD, Hà nội 1989, trang
712
4
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
quốc phòng, giáo dục...) 2
.
Có quan điểm hàng hóa công3
: là một hàng hóa hay dịch vụ mà nếu
được cung cấp cho một người thì vẫn tồn tại cho những người khác mà không
phát thêm chi phí nào. Đây là điểm phân biệt với hàng hóa tư nhân, việc tiêu
dùng hàng hóa tư nhân của người này sẽ ngăn cản việc tiêu dùng cùng hàng
hóa đó của người khác. Vì vậy một hàng hóa công cộng thuần túy phải hội tụ
hai thuộc tính đó là “ không cạnh tranh hay không thể loại trừ” và “không có
tính loại trừ trong tiêu dùng”. Tính không loại trừ chỉ rõ hàng hóa công cộng
khi đã cung cấp cho một người thì nó có thể phục vụ thêm cho nhiều người
mà không tao thêm chi phí (chi phí cận biên cho thêm một người sử dụng
bằng không). Còn thuộc tính không cạnh tranh trong tiêu dùng được hiểu là
hàng hóa công cộng có thể cung cấp phục vụ không hạn chế và cho bất kỳ
người tiêu dùng nào trong xã hội4
, nó không thể ngăn cản bất kỳ ai tiêu dùng
nó. Chính lý do này dẫn đến xuất hiện kẻ ăn không, kẻ ăn không được hiểu là
những người tìm cách hưởng thụ lợi ích của HHCC mà không đóng góp một
đồng nào cho chi phí sản xuất và cung cấp nó. Cũng có thể sử dụng một số
biện pháp để loại trừ kẻ ăn không, nhưng việc áp dụng các biện pháp này có
thể dẫn đến một trạng thái không đạt hiệu quả Pareto. Vì việc có thêm nhiều
người khác hưởng thụ HHCC thuần túy sẽ không làm lợi ích của bất kỳ ai
trong xã hội bị giảm đi, và việc loại trừ kẻ ăn không cũng đòi hỏi nguồn lực
để thực hiện.
Khi HHCC chỉ hội tụ một trong hai thuộc tính trên thì nó thuộc loại
HHCC không thuần túy, như giáo dục, y tế, cứu hỏa.v.v...Bản thân nó có sự
2
PGS.TS.Mai Văn Bưu – Giáo trình Quản lý học ĐH KTQD, tập 1, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà nội 2001
3
Theo từ điển Kinh tế học hiện đại – Macmillan (Daivid W.Pearce). Trong chuyên đề này,
các khái niệm “hàng hóa công cộng”, “hàng hóa công” và “dịch vụ công” được hiểu và sử
dụng như nhau.
4 GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn – Bài giảng Chính trị học trong Quản lý công(2007), ĐH KTQD
5
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
kết hợp giữa HHCC và hàng hóa tư, cho đến này thực tế thuật ngữ hàng hóa
và dịch vụ công thường được dùng chung cho cả hai loại HHCC thuần túy và
cả không thuần túy.
Như vậy ở đây chúng ta có thể hiểu hàng hóa công cộng là những loại
hàng hóa, những tiện ích được đem trao đổi để sử dụng chung mà thỏa mãm
được ít nhất một trong hai thuộc tính: không có tính loại trừ và không có tính
canh tranh trong tiêu dùng.
1.1.1.2. Các hình thức cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước
Hiện nay có nhiều hình thức cung ứng hàng hoá và dịch vụ công, trong
đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, nhà nước đảm bảo cho các hàng
hóa và dịch vụ công được cung cấp cho người dân. Hiện có một số hình thức
cung ứng đã được sử dụng như sau:
- Chính phủ là cung ứng trực tiếp hàng hoá, dịch vụ công.
- Chính phủ chuyển trách nhiệm cung ứng cho chính quyền địa phương.
- Chính phủ ký hợp đồng thuê khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính
phủ cung cấp dịch vụ công.
- Nhà nước có thể bán, nhượng quyền kinh doanh sang cho khu vực tư
nhân.
- Nhà nước thu hút sự tham gia của cộng đồng xã hội hoặc nhà nước hỗ
trợ trực tiếp cho các hộ gia đình.
Ví dụ: Một số hình thức cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo được
chia theo nhà cung ứng xem trong Bảng sau.
6
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
Bảng 1: Một số hình thức cung ứng dịch giáo dục chia theo nhà
cung ứng.
Hình thức sở hữu
Loại hình tổ chức
của nhà cung ứng
Dịch vụ giáo dục
Khu vực công Bộ/sở/vụ/văn phòng Trường trực thuộc Bộ giáo dục&đào
tạo (quốc gia, tỉnh, huyện)
Công ty tự chủ
thuộc khu vực công
Trường đại học tự chủ
Khu vực không vì
lợi nhuận
Cộng đồng sở hữu Trường không chính thống
Tổ chức phi lợi
nhuận
Trường do các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức tôn giáo điều hành
Khu vực tư nhân
vì lợi nhuận
Các doanh nghiệp
nhỏ
Trường tư phi tôn giáo
Các doanh nghiệp
lớn
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Như vậy, khá phong phú về hình thức cung ứng các dịch vụ công, như
bảng trên ta thấy có các loại tổ chức khác nhau, các loại hình sở hữu khác
nhau tham gia cung cấp một loại dịch vụ giáo dục. Điều này hoàn toàn không
làm mờ đi vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công, mà lại làm
cho việc cung ứng các dịch vụ này trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn nhiều.
Nhà nước đảm bảo việc hàng hoá và dịch vụ công phải được cung cấp cho
người dân, nhưng không nhất thiết nhà nước phải là người duy nhất và trực
tiếp cung ứng dịch vụ công. Đặc biệt đối với các hàng hoá và dịch vụ công
“không thuần tuý” như giáo dục, y tế v.v... nên để khu vục khác tham gia
cung ứng, do tính có tính loại trừ trong tiêu dùng của các hàng hoá này.
Nhưng sẽ là sai lầm nếu để thị trường hoàn toàn điều tiết việc cung ứng các
dịch vụ công. Vì vậy Nhà nước, cần đảm bảo chức năng điều tiết thị trường
7
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
đối với hàng hoá và dịch vụ đặc biệt này, đảm bảo về mặt thể chế để thị
trường hoạt động. Ngoài ra, khi phân phối dịch vụ công nhà nước cần đảm
bảo các đối tượng dễ bị tổn thương, khu vực vùng sâu vùng xa, vùng còn
nghèo khó phải được tiếp cận, đảm bảo phúc lợi xã hội và công bằng xã hội.
Nhưng nếu chỉ do nhà nước trực tiếp cung ứng hoàng hoá và dịch vụ
công không thuần tuý thì cũng chưa chắc đảm bảo sẽ đạt được tính hiệu quả
xã hội. Vì khi đó nhà nước hoàn toàn đảm nhiệm việc cung ứng nên tính hiệu
quả không cao, cứng nhắc và thiếu tính cạnh tranh trong cung ứng các hàng
hoá và dịch vụ này. Vì vậy cần phải chuyển đổi đa dạng hoá và mở rộng diện
các nhà cung cấp, đặc biệt là các nhà cung cấp tư nhân là cần thiết. Tuy nhiên,
vẫn phải nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước để đảm bảo cho thị trường
về các hàng hoá và dịch vụ công được vận hành một cách có hiệu quả.
1.2. Một số vấn đề lý luận về đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý của
các tổ chức sự nghiệp công
1.2.1. Lĩnh vực sự nghiệp và tổ chức sự nghiệp công.
1.2.1.1. Lĩnh vực sự nghiệp
Thuật ngữ lĩnh vực sự nghiệp đã được sử dụng ở Việt Nam từ nhiều
năm nay, từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung lẫn trong thời kỳ chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Thuật ngữ này vẫn
được dùng thông dụng để chỉ những hoạt động liên quan tới việc cung ứng
dịch vụ công, phục vụ nhu cầu thiết yếu và đảm bảo chất lượng cuộc sống của
con người. Lĩnh vực sự nghiệp bao gồm những lĩnh vực như giáo dục & đào
tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, bảo hiểm xã hội, nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ v.v. Trong hệ thống danh mục thống kê quốc gia và
trong danh mục các tổ chức được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động
của nước ta, lĩnh vực sự nghiệp được xếp cùng nhóm với "khu vực dịch vụ",
8
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
có lúc còn được ghép cùng với hoạt động quản lý hành chính nhà nước để trở
thành lĩnh vực "hành chính-sự nghiệp". Tuy nhiên thực chất lĩnh vực sự
nghiệp có phạm vi hẹp hơn, chỉ giới hạn trong một số hoạt động cung ứng,
chứ không phải cung ứng tất cả các loại dịch vụ công cho xã hội.
Dịch vụ công là một khái niệm rộng, bao gồm 3 nhóm dịch vụ chính
như dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích. Ở
Việt Nam ta nhận thức và cách hiểu về dịch vụ công hiện vẫn chưa thật rõ
ràng, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Chính vì sự thiếu thống nhất như vậy
gây ra sự rắc rối cho xây dựng chính sách liên quan, đây là một vấn đề mang
đậm nét Việt Nam.
Trong danh mục phân loại các dịch vụ do Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) xây dựng có đưa ra 10 nhóm dịch vụ chính và có tới 150 loại
dịch vụ trong khuân khổ Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS).
Trong đó, những hoạt động thuộc lĩnh vực sự nghiệp được đưa vào các nhóm
như được trình bày trong Hộp 1 dưới đây.
Các hoạt động sự nghiệp thường có một số đặc điểm chung là:
(1) Cung cấp các dịch vụ công;
(2)Thường mang tính chuyên môn (như y tế, giáo dục, thể thao, khoa
học và công nghệ...), không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu phát triển
con người, mục tiêu đảm bảo phúc lợi xã hội và công bằng cho con người;
(3) Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sao cho các
dịch vụ này được cung cấp cho người dân của mình
9