Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1 9 3 4
N VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nhiều tá c giâ
DI SẢN VĂN HÓA
TỈyUi
DI SẢN VĂN HÓA
CỒNG CHIÊNG
TÂY NGUYÊN
Ban tuyển chọn:
GS.TS. NGUYỄN CHÍ BỀN
PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN
TS. VÕ THỊ HOÀNG LAN
TS. VŨ TÚ QUYÊN
Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Di sàn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên / Nguyễn Khắc Sừ, Phan Thanh
Toàn, Trần Lâm Biền...; Tuyển chọn: Nguyễn Chí Bền... - H. : Văn hóa dân tộc,
2017. - 512tr. ; 24 cm
ĐTTS ghi: Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam. - Phụ lục cuối
chính văn
ISBN 9786047021017
1. Di sản vãn hóa 2. cồng chiêng 3. Tây Nguyên
390.095976 - dc23
VDF0059p-ClP
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
NHIỀU TÁC GIẢ
DI SẢN VĂN HÓA
CỒNG CHIÊNG
TÂY NGUYÊN
THƯ VIỆN TỈNH
BÌNH PHƯỚC—
v. t / 4GM________
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘC
Hà Nội - 2017
LỜI THƯA TRƯỚC
N gày 25-11-2005, Không gian văn hóa cồng chiêng Táy Nguyên
đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
(UNESCO) vinh danh là Kiệt tác truyền khẩu và đi sản phi vật thế
cùa nhân loại (năm 2008, di sản này được ghi danh là Di sản văn hóa
phi vật thể đại diện cùa nhân loại). Sự kiện này không chỉ mang lại
niềm phấn khởi, tự hào cho người Tây Nguyên nói riêng, người Việt
Nam nói chung, mà còn đặt ra cho chúng ta ữách nhiệm bảo tồn, phát
huy di sản đặc sắc này của thế giới, xứng đáng với vai ưò và giá trị
của nó trong lịch sử cũng như hiện nay.
về mặt địa lý, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
không chỉ gồm 5 tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên là Kon Tum, Gia
Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng; mà còn lan rộng đến các tỉnh lân
cận như Bình Phước, Đồng Nai, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận. Chủ nhân đã sáng tạo nên không gian văn hóa này là cư
dân của nhiều dân tộc khác nhau thuộc ngữ hệ Nam Á và ngữ hệ Nam
Đảo, đã cư trú lâu đòi ở đây. Do vậy, sự phong phú, đa dạng về mặt
số lượng các bộ cồng chiêng, cũng như hình thức diễn tấu, các bài
bản diễn tấu, không gian diễn tấu cồng chiêng... cũng chính là nét đặc
sắc của vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Tuy mỗi tộc người
Tây Nguyên đều có một bộ cồng chiêng riêng, với tên gọi, biên chế,
cơ cấu... của từng bộ không giống nhau, nhưng sự thống nhất đã tạo
nên bản sắc cho cư dân ở đây, chính là cồng chiêng luôn có một vai
trò quan họng trong cả đời sổng vật chất và tinh thần của mọi người
Tây Nguyên, từ khi sinh ra cho đến khi trở về với ông bà tổ tiên ở thế
giới bên kia. Do vậy, không đơn giản chỉ là một nhạc cụ, cồng chiêng
đối với người Tầy Nguyên trước hết là một vật thiêng, là nơi trú ngụ
5
cùa thần linh, nên chức năng quan trọng nhất của cồng chiêng đối với
các tộc người Tây Nguyên chính là chức nâng nghi lễ. Và cũng từ
chức năng này mà nhiều giá trị xã hội, kinh tế, nghệ thuật... của cồne
chiêng đã được tạo dựng, là cơ sở cho sự tồn tại cùng với thời gian
của di sàn độc đáo này.
Cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng đã hiện diện từ rât
lâu đời ưong xã hội Tây Nguyên, việc nghiên cứu, sưu tầm về hiện
tượng văn hóa này cũng đã được các nhà nghiên cứu trong nước và
nước ngoài quan tâm từ đầu thể kỷ XX cho đến nay, giúp cho đông
đảo công chúng có được những hiểu biết nhất định về một di sản văn
hóa độc đáo của Tây Nguyên, của thế giới. Tuy nhiên, bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao lưu văn hóa giữa các vùng, miên
ưong một quốc gia và giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng như hiện
nay, không phải lúc nào cũng là môi trường thuận lợi cho việc bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật
thể nói riêng, và di sản văn hóa phi vật thể thế giới Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên cũng không phải là ngoại lệ. Để nâng
cao hơn nữa ý thức bảo tồn và phát huy giá trị của Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên ưong mỗi người con Tây Nguyên nói
riêng, và mỗi người Việt Nam nói chung, chúng tôi xin tập hợp các
bài viết liên quan của các tác già đã công bổ ưong thời gian qua, biên
soạn thành một cuốn sách với nhan đề Di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên. Nội dung cuốn sách được chia làm 3 phần chính:
- Phần I: Bối cảnh vùng văn hỏa cồng chiêng Tây Nguyên
- Phần II: Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - Di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại
- Phân III: Đe cồng chiêng Tây Nguyên vang mãi tới mai sau
Qua cuôn sách này, chúng tôi hy vọng bạn đọc sẽ có được những
hiêu biêt đây đủ hơn, những ứng xử phù hợp hơn để bảo tồn và phát
huy tốt hơn giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên!
BAN TUYẾN CHỌN
6
Văn bản công nhận của UNESCO:
THIRD PROCLAMATION OF MASTERPIECES
OF THE ORAL AND INTANGIBLE HERITAGE
OF HUMANITY
UNESCO Headquaters, Paris 25 November 2005
The Space of Gong Culture in the Central Highlands
of Vietnam
The cultural space of the Gongs in the Central Highlands of
Vietnam covers several provinces and nearly seventeen minority
ethnic groups belonging to the Austro-Asian and Austronesian
linguistic groups. These populations live of traditional agriculture
and have developed their own craft traditions, decorative styles
and types of dwelling. Their most popular beliefs come from cult
of the ancestors, shamanism and animism. Closely linked to daily
life and the cycle of the seasons, these beliefs form a mystical
world where the gongs intervene as a privileged language between
men, divinities and the supernatural world. Behind every gong
hides a god or goddess who is all the more powerful as the gong is
older. Every family possesses at least one gong, which indicates
the family’s wealth, authority and prestige, and also ensures their
protection. While a range of brass instruments is used in the
various ceremonies, the gong alone is present in all the rituals of
community life and is the main ceremonial instrument.
7
Gong culture is said to originate in the ancient Dong Son
civilization, also known as the brass drum culture, of Southeast
Asia. The gongs of Vietnam are distinguished by the way they are
played. Each instrumentalist carries a different drum of between
25 and 80cm in diameter. The groups, of men or women, are
formed of between three and twelve gongs depending on the
village. Different arrangements and rhythms are adapted to the
context of the ceremony, for example, the ritual sacrifice of the
bullocks, the blessing of the rice, mourning rites and harvest
celebrations. The gongs of this region are not made locally. They
are bought in neighbouring countries, and then turned to the
desired tone for their own use.
Economic and social transformations have drastically affected
the traditional way of life of these communities and no longer
provide the original context for the Gong culture. Transmission
of these ways of life, knowledge and know-how to new
generations was severely disrupted during the decades of war.
This is now aggravated by the disappearance of old craftsmen
and the attraction that young people have of western cultural
influences. Stripped of their sacred significance, the gongs are
sold for recycling or exchanged for other products.
TUYÊN BỐ CỦA KIỆT TÁC
TRUYỀN KHẨU VÀ DI SẢN PHI VẬT THỂ
CỦA NHÂN LOẠI
UNESCO, Paris, ngày 25-11-2005
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng trên
địa bàn năm tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk
Nông, Lâm Đồng và một số vùng phụ cận của Việt Nam. Chủ
nhân sáng tạo Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là
những cư dân các dân tộc thiểu số thuộc ngữ hệ Nam Á và Nam
Đảo. Người dân ở đây chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp và đã
phát triển các nghề truyền thống, nghệ thuật trang trí và kiến trúc
nhà ở theo cách riêng của mình. Tín ngưỡng của họ là tín ngưỡng
vạn vật hữu linh. Tín ngưỡng này gắn bó với chu kỳ vòng đời của
con người và chu kỳ vòng đời cây trồng của nền sản xuất nông
nghiệp truyền thống, đã hình thành nên một thế giới thần bí, ở
đó sự can thiệp của cồng chiêng như một thứ ngôn ngữ thông
linh giữa con người và thần thánh, con người với giới siêu nhiên.
Đằng sau mỗi chiếc cồng chiêng đều ẩn chứa một vị thần (nam
hoặc nữ). Cồng chiêng càng cổ thì vị thần càng có nhiều quyền
lực. Mỗi gia đình đều có ít nhất một dàn cồng chiêng, nó thể hiện
địa vị, quyền lực, sự giàu có và uy tín của gia đình đó. Trong khi
có rất nhiều các phương tiện gõ bằng đồng được sử dụng trong
9
các nnhi lễ khác nhau, ihì bàn thân cồne chiC*ng cũne hiện diện
trong tàt cà các nghi lễ cùa cộng dồng, và là phương tiện biểu
diễn quan trọng nhất.
Văn hóa cồng chiêng được cho rằng bắt nguồn từ văn minh
Đông Sơn cổ đại, nền văn minh dược biết đến với tư cách là một
nền văn hóa trống đồng nổi tiếng ờ Đông Nam Á. cồng chiêne
Việt Nam được phân biệt ở cách chơi của nó. Mỗi nghệ nhân
mang một chiếc cồng hoặc chiêng có bán kính từ 25 đến 80cm.
Các nhóm nam hoặc nữ được hình thành từ 3 đến 12 chiếc cồng,
chiêng tùy theo từng làng, từng tộc người. Sự sắp xếp và các
giai điệu khác nhau được phối hợp phù hợp với bổi cảnh của
từng buổi lễ, ví dụ như lễ đâm trâu, lúa mới, nghi lễ tang ma hay
mừng mùa... cồng chiêng ở Tây Nguyên không được làm tại chỗ.
Chúng được mua về từ các tỉnh lân cận ở miền xuôi và một vài
quốc gia láng giềng và được chỉnh âm theo mục đích sử dụng.
Sự thay đổi hình thức canh tác của nền sản xuất nông nghiệp
cổ truyền đã ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt truyền thống của
cộng đồng dân cư các dân tộc thiểu số, và bối cảnh sinh hoạt văn
hóa cồng chiêng nguyên gốc đã có sự thay đổi. Việc chuyển giao
các phong tục, kiến thức, bí quyết liên quan đến cồng chiêng và
văn hóa cồng chiêng cho thế hệ kế tiếp đã bị gián đoạn bởi hàng
thập kỷ chiến tranh. Giờ đây, điều đó càng trầm trọng thêm bởi sự
qua đời của các nghệ nhân cao tuổi và sự quyến rũ, sự ảnh hưởng
của các luồng văn hóa ngoại lai đối với những người trẻ tuổi. Mất
đi ý nghĩa linh thiêng của mình, cồng chiêng đã bị bán đi dể tái
chế hoặc bị đem ra trao đổi vợi các hàng hóa khác.
10
PHẦN I
BỘI CẢNH VÙNG VĂN HÓA
CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
c ơ TẦNG VĂN MINH ĐAU t iê n
CỦA VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
PGS. TS. Nguyễn Khắc Sử*
Phan Thanh Toàn“
1. CÓ một văn hóa cồng chiêng ở Tây Nguyên
1.1. Ngicời ta nói nhiều về văn hóa cồng chiêng. Văn hỏa
cồng chiêng là gì? Nội hàm văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
đơn thuần là vãn hóa vật thể hay cả văn hóa phi vật thể? Văn hóa
cồng chiêng là bản địa hay ngoại nhập? Nó nảy sinh trên cơ tầng
văn minh nào? Tất cả những câu hỏi đó vẫn còn cần sự giải đáp
của các nhà khoa học. Dựa trên cơ sở tư liệu khảo cổ học khai
quật là chính, bài viết này thử tìm hiểu cơ tầng văn minh đầu tiên
của văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Khi nói đến cồng chiêng, người ta thường quan tâm đến văn
hóa vật thể, cái cồng, cái chiêng, sờ mó được, nhận biết được
bàng định tính và định lượng. Từ đó, người ta đi tìm nguồn gổc
cồng chiêng ở cư dân hiện nay đang chế tạo, lưu giữ hoặc trao
đổi, buôn bán, mà quên mất một điều ràng, cồng chiêng còn có
một lãnh địa nhận thức khác - đó là văn hóa cồng chiêng.
Văn hóa cồng chiêng là sản phẩm hoạt động của con người
trong mối quan hệ tương tác với tự nhiên và xã hội, diễn ra trong
Viện Khảo cổ học.
13
không gian, thời gian và hoàn cảnh nhất định. Cũng như các văn
hóa khác, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên này sinh, tồn tại và
phát triển trong một cơ tầng văn minh cụ thể ở Tây Nguyên.
Văn hóa và văn minh là hai khái niệm khi sừ dụng dễ bị lẫn
lộn. Văn minh thường liên quan đến kỹ thuật hay các biện pháp
riêng của con người tác động tới tụ nhiên, khái niệm để chì trình
độ con người đạt được trong tiến trình phát triển văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần ở từng giai đoạn nhất định. Các nhà khảo cô
thường gọi là văn minh đồ đá, văn minh đồ đồng và văn minh đồ
sắt, văn minh đô thị là mang hàm nghĩa ấy.
Khái niệm văn hóa lại gắn bó với văn minh và là linh hồn của
văn minh. Nếu như văn minh liên quan mật thiết tới kỹ thuật, thì
văn hóa thường được biểu hiện bằng mối liên hệ giữa con người
với tự nhiên, con người với con người và con người với thần
linh. Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được biểu hiện bàng các
mối liên hệ ấy, thông qua hệ thống ứng xử cùa con người, cộng
đồng người sử dụng cồng chiêng. Quan sát cư dân sử dụng cồng
chiêng Tây Nguyên, người ta dễ dàng nhận ra tính chuẩn mực của
văn hóa ứng xử, qua hành vi, nếp nghĩ, cách chơi, cách làm, cách
chỉnh âm, từ lối sinh hoạt đến đối nhân xử thế trong giao tiếp
cồng chiêng. Có thể nói, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là văn
hóa ứng xử, do con người tạo ra. Nếu con người là sản phẩm cao
nhất của tự nhiên, thì văn hóa cồng chiêng là một trong những
sản phẩm tự nhiên đặc sắc nhất, được con người tạo ra nhàm thỏa
mãn cuộc sống và sự phát triển cộng đồng.
1.2. Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên cỏ bản sắc riêng,
làm thành hệ giá trị, không lẫn với các văn hóa cồng chiêng ở
các vùng, miền khác. Bản sắc dân tộc thể hiện ở hệ giá trị dân
tộc, ở truyền thống, bản lĩnh, tâm hồn, lổi sống, cách làm, cách
14
cảm, cách nghĩ, cách suy tư và cả ở khát vọne, biêu tượng của
một dân tộc. Vậy chăng, bản sắc ấy gan liền với các điều kiện
tự nhiên, xã hội và lịch sử của vùng đất. Như chúng ta đều biết,
điều kiện tự nhiên Tây Nguyên ít thay đổi, những yếu tố văn
hóa gắn liền với nó gần như là những hàng số. Xã hội và lịch
sử thì biến đổi, nên những yếu tố văn hóa gắn liền với chúng là
những biến số. Xã hội Tây Nguyên trong lịch sử biến đổi chậm,
nên những biến số này cũng gần với các hàng số'. Bởi thế,
chúng ta mới có cơ may nghiên cứu văn hóa truyền thống cồng
chiêng Tây Nguyên trong mối quan hệ với cách tân, gắn liền với
tự nhiên, xã hội và lịch sử.
2. Diên cách một vùng đất cồng chiêng
2.1. Nghiên cứu cồng chiêng Tây Nguyên không thể tách rời
điều kiện tự nhiên của vùng đất sản sinh ra chủng và nuôi dưỡng
chủng. Trước hết, địa hình Tây Nguyên được ví như một cánh
diều căng gió, vút trên bầu trời miền Trung Việt Nam. Hai đỉnh
cao nhất của cánh diều ấy là tỉnh Kon Tum ở cực bắc và tỉnh
Lâm Đồng ở cực nam. Cực bắc có khối núi granit Ngọc Linh
cao 2.588m, còn cực nam sừng sững dãy núi Chư Yang Sin cao
2.405m. Phần giữa trũng xuống, nhưng vẫn đạt độ cao trung bình
500 - 600m. Đó là các cao nguyên bề mặt san bàng, kế nhau
mang các tên gọi: cao nguyên Kon Hà Nừng, Pleiku, Buôn Ma
Thuột (hay cao nguyên Đăk Lăk), M ’Đắk, Mnông, Di Linh, Lâm
Viên (hay cao nguyên Lang Biang).
Tây Nguyên đôi khi còn gọi là miền núi Trường Sơn Nam, 1
1 Biến sổ là những đại lượng biến thiên, tức đại lượng có thể nhận các giá trị
khác nhau trong một miền giá trị nào đó; còn hằng sổ là đại lương có giá tri
không thay đôi.
15
tiếp nổi cùa Trường Sơn Bấc. Có điều, miền núi ấy khône còn là
một dãy, mà là một khối “núi - cao nguyên” với bè mặt lượn sóng
rộng thênh thang và những dòng sông lớn chày ngoan ngoèo vê
phía tây1.
Neu ta làm một đường bổ dọc từ Kon Turn qua Gia Lai,
xuống Đăk Lăk, Đăk Nông rồi Lâm Đồng, có thể bat gặp ờ đây
một hệ sinh thái đặc trưng: Núi - Cao nguyên - Núi. Nhưng núi và
cao nguyên ở đây lượn sóng, tạo cho địa hình Tây Nguyên một
nét sơn nguyên mềm mại hơn bất kỳ vùng núi nào mà ta đã gặp ở
Trường Sơn Bắc hay Tây Bắc Việt Nam.
Phía đông Tây Nguyên là các tỉnh ven biển Trung Bộ. Thật
khó mà có một ý niệm rõ rệt về ranh giới địa hình giữa Tây
Nguyên với các tinh ven biển Trung Bộ Việt Nam. Thật ra, vùng
đất miền Trung chỉ là sự kéo dài của Tây Nguyên về hướng
đông mà thôi. Dưới góc độ địa - văn hóa, toàn bộ sườn đông của
Tây Nguyên nối với các tinh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên và Khánh Hòa cũng chỉ là sự tiếp tục kéo dài,
hạ độ cao của núi đồi, để vươn ra tiếp cận đồng bằng ven biển
miền Trung.
Có lát cắt dọc rồi, chúng ta làm một một lát cắt ngang từ tây
sang đông, có thể bắt gặp ở đây một hệ sinh thái phổ quát khác,
đỏ là: Cao nguyên - Núi đồi - Đồng bằng - Biến đảo. Chính hai
chiều ngang - dọc ấy đó dệt nên diên cách của vùng đất Tây
Nguyên huyền ảo. Trong lịch sừ văn hóa cổ xưa cũng vậy, giữa
hai vùng này có mối liên hệ chặt chẽ, xuyên suốt1 2.
1 Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1990,
Tr. 188.
2 Lê Đình Phúc - Nguyễn Khắc Sử, Kháo cổ học tiền - sơ sử miền Trung và Tây
Nguyên, Nxb Đại học Huế, 2006.
16