Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh giá thực trạng rối loạn giọng nói của nữ giáo viên Tiểu học thành phố Thái Nguyên và hiệu quả của một số biện pháp can thiệp
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
- 1 -
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRẦN DUY NINH
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG RỐI LOẠN GIỌNG NÓI
CỦA NỮ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
VÀ HIỆU QUẢ CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN - 2010
- 2 -
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự xuất hiện của tiếng nói như một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển
văn minh của xã hội loài người và không thể thiếu trong mọi ngôn ngữ [131]. Đối
với giao tiếp, giọng nói không chỉ đơn thuần là phương tiện chuyển tải nội dung
của thông điệp mà còn phản ánh rất nhiều thông tin khác nhau từ người nói như:
tuổi tác, giới tính, nguồn gốc xuất xứ, nghề nghiệp, địa vị xã hội, tâm trạng cảm
xúc, tình trạng sức khỏe... Giọng nói cũng đóng vai trò như một công cụ lao
động chính của nhiều ngành nghề như: giáo viên (GV), ca sĩ, nhân viên bán
hàng, luật sư, phát thanh viên... Theo Mathieson L. trong xã hội hiện đại có trên
30% lực lượng lao động phải sử dụng giọng nói như một công cụ chính để kiếm
sống [103], [153]. Việc sở hữu một giọng nói bình thường không chỉ giúp giao
tiếp xã hội hiệu quả mà còn bảo đảm cho những người sử dụng giọng nói chuyên
nghiệp duy trì được hiệu suất lao động tốt.
Tuy nhiên, giọng nói có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố nguy cơ, đưa đến
các rối loạn, nhất là trên những người sử dụng giọng nói chuyên nghiệp. Rối loạn
giọng nói (RLGN) do nguyên nhân ở thanh quản có thể chỉ là những triệu chứng
đơn lẻ về chất giọng hay một vài khó chịu trong quá trình phát âm, nhưng cũng có
thể là những bệnh lý thực sự ở thanh quản (Bệnh giọng thanh quản - BGTQ). Một
trong những nghề chịu tác động lớn của RLGN là GV, đối với họ BGTQ gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến công việc, giao tiếp và là mối nguy cơ khiến họ phải nghỉ
việc hoặc thậm chí chuyển nghề (Smith E. và cộng sự (CS) 1997) [141]. Trong
một nghiên cứu của Thibeault S. L. và CS, ở Mỹ có hơn 3 triệu GV bậc tiểu học
(GVTH) và trung học cơ sở (THCS) dùng giọng nói như là phương tiện đầu tiên để
truyền đạt. Họ có nguy cơ cao bị RLGN, đặc biệt là GV nữ. Mỗi năm có 18,3% GV
phải bỏ ít nhất một ngày làm việc và đã gây thiệt hại một khoản tiền là 2,5 tỷ đô la
để chi phí cho việc điều trị và nghỉ việc do RLGN [146].
Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê của bộ Giáo dục và đào tạo (GD-ĐT),
năm học 2006 - 2007 toàn quốc có 1.012.468 GV các cấp (từ mầm non đến đại
học) trực tiếp giảng dạy [1]. Theo Ngô Ngọc Liễn, có từ 14,42% đến 28,43%
GVTH mắc BGTQ [21]. Như vậy, nếu tỷ lệ mắc bệnh này cũng phù hợp với các
cấp khác, ước tính toàn quốc sẽ có khoảng từ 179.788 đến 354.465 GV có tổn
thương ở thanh quản.
- 3 -
Mặc dù giọng nói không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, nhưng mọi
người ít khi nghĩ về cách sử dụng giọng nói của họ, dẫu cho họ thường xuyên
cân nhắc những gì cần nói (Tannen D. 1995) [145]. Tình trạng lạm dụng giọng
nói, dây thanh bị sử dụng quá mức diễn ra khá phổ biến ở những người phải
thường xuyên sử dụng giọng nói trên thế giới, trong đó có Việt Nam [25]. Do
vậy, việc khảo sát các loại RLGN, cách điều trị và việc đánh giá hiệu quả của chúng
ở những người sử dụng giọng nói như công cụ lao động chính (ví dụ: GVTH) là
cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tế.
Cho đến nay, các đề tài nghiên cứu về RLGN của người Việt Nam còn rất
hạn chế. Chưa có đề tài nào tiến hành nghiên cứu đánh giá và can thiệp trên
giọng nói của GV ở mức độ cộng đồng nhằm làm giảm tỷ lệ mắc, phòng ngừa và
điều trị các RLGN ở nhóm đối tượng này. Thực tế cho thấy tỷ lệ BGTQ ở GV rất
cao, trong khi đó phần lớn GV không được đào tạo về cách sử dụng giọng nói
đúng kỹ thuật, không biết cách chăm sóc giọng nói và không biết cách xử trí khi
giọng nói của mình có vấn đề. Nghiên cứu tại cộng đồng sẽ giúp GV được bổ
sung các kiến thức và kỹ năng sử dụng giọng nói một cách hợp lý, biết cách
phòng ngừa và phát hiện bệnh giọng sớm khi các rối loạn chưa gây ra hậu quả
nặng nề. Ngoài ra, các nghiên cứu đánh giá, sàng lọc và can thiệp tại cộng đồng
cũng sẽ giúp GV duy trì tốt công việc của mình mà không phải bỏ thời gian
giảng dạy để đi khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, góp phần quan trọng làm
giảm áp lực tại các bệnh viện.
Đề tài được tiến hành với các mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng rối loạn giọng nói của nữ giáo viên tiểu học
thành phố Thái Nguyên từ năm 2006 - 2008.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến rối loạn giọng nói của nữ giáo
viên tiểu học.
3. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp nhằm cải thiện sức
khỏe giọng nói của nữ giáo viên tiểu học thành phố Thái Nguyên.
- 4 -
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giọng nói
1.1.1. Khái niệm về giọng nói
Giọng nói là tín hiệu âm học được tạo ra bởi thanh quản và bộ máy phát
âm. Quá trình hít thở không khí qua khe thanh môn và việc tạo ra tiếng nói được
gọi là phát âm.
Giọng nói bình thường có được là do sự toàn vẹn về giải phẫu của cơ quan
phát âm và các bộ phận liên quan, chúng hoạt động gần như đồng thời và thống
nhất với nhau dưới sự điều khiển của hệ thống thần kinh trung ương. Đặc điểm
âm học của giọng nói và những thay đổi của nó phụ thuộc vào cấu trúc tự nhiên
và cơ chế sinh học của thanh quản ở mỗi người [23].
1.1.2. Giọng nói bình thường (Normal voice)
Rất khó để có thể định nghĩa giọng nói bình thường, bởi vì, giọng nói của
mỗi người đều có đặc điểm riêng biệt và khác hoàn toàn với giọng người khác.
Bên cạnh đó, cùng là một người nhưng có thể phát ra những âm thanh khác nhau
tùy thuộc vào các nhân tố như tâm trạng, sự mệt mỏi, đau ốm và sự nhận thức
hoàn cảnh giao tiếp [52], [68], [69], [99].
Mathieson L. (2001) cho rằng: giọng nói là một cái gì đó rất bình thường,
không có gì quá đặc biệt, do đó, sẽ dễ dàng hơn để cân nhắc liệu giọng nói có
nằm trong giới hạn bình thường hay không.
Giọng nói được xem như là bình thường khi:
- Âm xướng lên phải rõ ràng, nó không quá thô ráp và không đứt quãng
hay nghe như tiếng “rải sỏi”.
- Nó phải luôn nhất quán và không tự nhiên biến mất khi muốn bày tỏ
quan điểm.
- Nó có thể nghe được trong một phạm vi rộng và có thể được nghe thấy
ngay cả khi có tiếng ồn bao quanh hay từ đằng sau.
- Khi nói với giọng lớn, mọi người phải đủ nghe và duy trì được giọng nói
vang to trong những hoàn cảnh xã hội.
- Một giọng nói bình thường phù hợp với độ tuổi và giới tính.
- Giọng nói có cả vai trò ngôn ngữ học và ngôn ngữ không âm vị theo ý
muốn của người nói.
- 5 -
- Giọng nói phải đảm bảo sự bền vững và không thay đổi bất chợt trong bất
cứ thông số nào của giọng nói từ lúc mới bắt đầu và trong suốt quá trình phát âm.
- Người nói có thể tự tin về cách diễn đạt giọng nói của mình.
- Có sự linh hoạt về độ cao, độ to và chất lượng của giọng nói.
- Giọng nói phải dẻo dai để có thể thường xuyên được vận dụng trong
công việc và cuộc sống thường nhật mà không bị suy yếu.
- Giọng nói bình thường khi phát âm phải thoải mái [103].
1.1.3. Vài nét về giải phẫu cơ quan phát âm
Cơ quan phát âm được phân chia thành ba bộ phận chính [22], [121]:
- Bộ phận hô hấp dưới: tạo luồng hơi phát âm.
- Bộ phận rung (thanh quản): tạo ra âm thanh.
- Bộ phận hô hấp trên: cộng hưởng và cấu âm, tạo ra âm thanh tiếng nói.
1.1.3.1. Bộ phận hô hấp dưới
Sự phát sinh ra âm thanh trong thanh quản phụ thuộc vào sự phối hợp của
hệ thống hô hấp dưới và thanh quản, với mức áp lực không khí thích hợp, dung
lượng khí và luồng không khí là cơ sở để phát âm và phát âm rõ ràng. Quá trình
thở ảnh hưởng tới phát âm, nhưng ngược lại, hành vi phát âm của thanh quản
cũng ảnh hưởng tới phương thức thở. Mô hình thở bị rối loạn sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đối với giọng nói, nhưng sự đóng và mở của dây thanh chắc chắn
cũng ảnh hưởng tới mô hình thở.
Bộ phận hô hấp dưới bao gồm:
* Khung xương ngực: là nơi chứa phổi và cung cấp dàn chuyển động cho
các cơ hô hấp bám dính.
* Các cơ của ngực: các cơ ngực tham gia vào việc mở rộng, co khép ngực
và phổi, cũng như duy trì sự di chuyển đều đặn khi hít vào và thở ra.
* Các cơ bụng: là các cơ hoạt động chính tạo ra lực khi thở ra, trong đó
đặc biệt là vai trò của cơ hoành.
* Các cơ hô hấp phụ: các cơ này hỗ trợ cho việc nâng xương sườn [56].
* Cây khí phế quản - phổi: khí quản tiếp giáp với thanh quản ở phía trên,
được cấu tạo bởi các vòng sụn không đầy đủ và được nối với nhau bởi các màng
sợi chun. Cấu trúc này cho phép khí quản di chuyển dễ dàng trong khi nuốt và
khi hít vào. Trong lòng khí quản được bao phủ bởi một lớp biểu mô có lông
chuyển và các tế bào tiết nhày. Xuống dưới, khí quản được phân chia thành
- 6 -
phế quản phải và phế quản trái. Các phế quản này đi vào trong phổi, được phân chia
nhỏ hơn tạo thành các tiểu phế quản và cuối cùng là các phế nang. Có khoảng 300
triệu phế nang, mỗi một phế nang có đường kính 0,3mm [2]. Các tế bào biểu mô
chuyên biệt của phế nang sản xuất ra chất dịch có tác dụng làm trơn các phế nang, để
tạo thuận lợi cho việc nở rộng của chúng và làm giảm sức căng bề mặt để phòng phế
nang xẹp. Không khí được đưa vào phổi qua khí - phế quản và vào phế nang.
Quá trình thở cũng như tạo luồng hơi phát âm không những chỉ phụ thuộc
vào cấu trúc giải phẫu của đường hô hấp dưới, của hệ thần kinh chi phối, mà còn
chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi tư thế thở và cách hít thở của mỗi cá nhân. Khi hít thở
ở những tư thế không phù hợp, cũng như cách hít thở không đúng sẽ không phát
huy được đầy đủ sự tham gia hoạt động của các cơ hô hấp, đặc biệt cơ hoành, sẽ
ảnh hưởng đến dung tích phổi, cũng như đến động lực của quá trình phát âm.
Theo kết quả nghiên cứu của Lowell S. Y. có sự khác nhau trong chiến
lược thở hay phát âm giữa những GV có hay không có RLGN [100].
1.1.3.2. Thanh quản
Thanh quản được tạo bởi một khung sụn liên quan với nhau bằng các dây
chằng, màng và cơ. Nằm ở phía trong khung sụn có hai dây thanh và băng thanh thất.
* Ống sụn thanh quản: các sụn thanh quản tạo nên hình dạng của thanh
quản và điều tiết hoạt động của các dây thanh. Khi lạm dụng phát âm, các sụn
hoạt động quá mức gây hiện tượng đau, mỏi tại các vùng tương ứng.
* Các cơ của thanh quản: các cơ của thanh quản bám, bao bọc ở mặt
ngoài và mặt trong khung sụn thanh quản.
- Các cơ ngoài có nhiệm vụ giữ chặt, cố định thanh quản tại chỗ hoặc có thể di
động toàn khối thanh quản đưa lên, đưa xuống trong động tác nuốt và trong một số
động tác phát âm. Sự hoạt động quá mức của thanh quản sẽ gây hiện tượng căng các cơ
vùng cổ, vùng dưới cằm mà người ta có thể cảm nhận rõ khi đặt ngón tay lên các vùng
đó. Đồng thời sự căng cơ quá mức kéo dài, gây cảm giác đau, mỏi khi phát âm.
- Các cơ trong: nhóm cơ này quan trọng hơn vì có nhiệm vụ trực tiếp điều
khiển hoạt động rung thanh - sự tạo thanh (phonation) của thanh quản. Do đó
người ta thường gọi tên nhóm này là “nhóm cơ phát âm”, trong đó quan trọng
nhất là cơ dây thanh.
Các cơ phát âm hoạt động hài hòa làm các dây thanh khép kín, khi có tác
- 7 -
động của luồng hơi phát âm (từ dưới lên) sẽ tạo ra các rung thanh. Ngược lại
phát âm quá mức sẽ làm các dây thanh quá căng gây co thắt, hoặc quá trùng gây
khe hở thanh môn. Điều đó làm cho người nói có cảm giác căng, đau, nói khàn,
hụt hơi, nói mau mệt và giọng nói có hơi thở. Khi khám thanh quản bằng nội soi
sẽ đánh giá được hiện tượng này.
* Mô học dây thanh: dây thanh rất chun giãn và có cấu trúc mô học rất
phức tạp (Hirano 1993). Cấu trúc phức tạp này góp phần vào việc thay đổi giọng nói,
dao động rộng cường độ âm thanh, dung lượng và chất lượng âm thanh [149].
Dây thanh có 3 lớp:
- Lớp ngoài của dây thanh chủ yếu là lớp biểu mô trụ có lông chuyển, tuy nhiên
mép giữa được bao phủ bởi lớp biểu mô lát tầng để chống lại ảnh hưởng của các sang
chấn do phát âm. Hình dáng cả dây thanh được duy trì bảo tồn bởi lớp ngoài. Phía
dưới của lớp biểu mô có ba lớp tổ chức liên kết được gọi là lamina propria.
Lớp bề mặt trên của lamina propria là một chất nền có các sợi lỏng lẻo mà
Hirano M. (1981) ví như chất gelatin. Đây là khoảng trống Reinke, khoảng trống
này rung rất mạnh trong thời gian phát âm (Hirano M., Kimminori S. (1993). Nó
có thể bị phù nề khi bị viêm hoặc lạm dụng giọng.
Lớp thứ hai là lớp trung gian của lamina propria có các sợi chun giống
như băng cao su mềm. Số lượng các sợi chun là khác nhau giữa nam và nữ.
Lớp thứ ba là lớp sâu có các sợi collagen mà Hirano M. (1993) so sánh
với các sợi coton.
Lamina propria ở nam giới dày hơn một cách đáng kể so với lamina propria ở
nữ giới. Có thể một lượng lớn hơn của acide hyaluronic trong cấu trúc dây thanh ở
nam giới đã giúp cho dây thanh của họ đỡ bị tổn thương hơn so với nữ giới [103].
- Cơ dây thanh: vai trò chính của cơ dây thanh là kiểm soát hình dáng của
dây thanh và tạo ra mức trương lực thích hợp, cho phép dây thanh rung bình
thường (Kent 1986). Nó có thể co ngắn, làm dày dây thanh, ảnh hưởng đến việc
co thắt thanh môn và làm cứng dây thanh.
1.1.3.3. Các bộ phận cộng hưởng và cấu âm
Âm phát ra từ thanh quản là một âm nguyên thuỷ, thô sơ và cứng, hoàn
toàn không mang tính chất âm thanh tiếng nói của con người. Nó cần được nhào
nặn, chế biến, gọt rũa nhờ những bộ phận tiết chế âm thanh, bao gồm khoang miệng
- 8 -
cùng với môi, răng, lưỡi, buồm hàm, để cuối cùng tạo thành những đơn vị mang
tính chất của tiếng nói con người. Hoạt động phát âm quá mức không chỉ tác
động xấu tới thanh quản mà còn gây ảnh hưởng đến các thành phần của bộ phận
cấu âm, đặc biệt gây mỏi các cơ vùng họng và vùng mặt.
Hiện nay các nhà chữa bệnh về giọng nói quan tâm nhiều tới vấn đề nghỉ
ngơi, thư giãn, xoa nắn các cơ vùng cổ, mặt. Cũng như có một số kỹ thuật phát
âm gây tập trung sự cảm nhận của người bệnh trong quá trình phát âm vào vùng
môi, mặt, chi phối sự tập trung cảm giác ở vùng cổ, họng đã góp phần cải thiện
các vấn đề về giọng nói.
1.1.3.4. Thần kinh chi phối cơ quan phát âm
Cơ quan phát âm được chi phối bởi các dây thần kinh V, VII, IX, X, XI,
XII và giao cảm cổ. Các trung khu phát âm ở vùng thân não và vỏ não [10].
1.1.4. Cơ chế phát âm và các thuộc tính vật lý của giọng nói
1.1.4.1. Cơ chế phát âm
Quá trình tạo ra tiếng nói (speech production) rất phức tạp, cần có sự phối
hợp nhịp nhàng và đồng bộ của nhiều cơ quan khác nhau.
Trước tiên phải có sự hình dung ý nghĩ, ý tưởng hiện ra trong não bộ bằng
ngôn ngữ nội tâm (giai đoạn trí não tâm lý). Từ đây chuyển sang giai đoạn cơ
động phát âm của thần kinh trung ương, phát ra những luồng thần kinh đi vào
các nhân của các dây IX, X, XI, XII và VII, từ đó sẽ đi ra ngoại biên và điều
khiển các bộ phận thuộc cơ quan phát âm: bộ phận hô hấp, thanh quản, bộ phận
cộng hưởng và cấu âm [3], [13], [18], [35], [126].
Sinh lý phát âm nhìn chung là kết quả của sự kết hợp ba quá trình cơ bản:
- Quá trình tạo một luồng hơi từ phổi đi ra, tức là tạo ra nguồn lực phát âm
và là động lực cần thiết để duy trì các rung động của dây thanh.
- Quá trình rung động của hai dây thanh để tạo ra nguồn thanh, gọi là quá
trình tạo thanh (phonation). Tạo thanh là thuật ngữ để miêu tả cách điều phối các
cơ ở thanh quản, tạo nên những thay đổi khi dòng khí đi qua khe thanh môn.
Liên quan đến quá trình tạo thanh là hoạt động đóng (abduction), mở (adduction),
căng và trùng của dây thanh. Phương thức tạo thanh khác nhau sẽ tạo ra nguồn
năng lượng âm học của tín hiệu lời nói có phẩm chất thanh tính (voice quality)
khác nhau về mặt vật lý cũng như âm học.
- Quá trình điều tiết những rung thanh này bởi các bộ phận mũi, họng,
- 9 -
miệng, môi và lưỡi, để cuối cùng tạo nên những phụ âm, nguyên âm, gọi là quá
trình cấu âm (articulation).
Ngoài ra trong cơ chế phát âm, không thể không kể đến vai trò chỉ huy,
điều chỉnh của não bộ và của tai nghe [134].
1.1.4.2. Các thuộc tính vật lý của giọng nói
Giọng nói không chỉ là một hiện tượng sinh lý học mà còn là hiện tượng
vật lý học. Mỗi âm thanh được xác định bởi tần số (cao độ), biên độ (cường độ)
và chất thanh.
* Tần số (Frequency): tần số là số chu kỳ trong một giây và được đo bằng
Hertz (Hz), tương quan về mặt cảm thụ của tần số là độ cao.
Jitter phản ánh cách mà dây thanh rung động, chỉ sự biến đổi, nhiễu loạn
về tần số dao động của dây thanh, giữa các chu kỳ liên tiếp nhau. Giọng nói bình
thường có độ nhiễu loạn về tần số giữa các chu kỳ liên tiếp (jitter) thấp. Với
phương pháp đo chỉ số jitter của giọng nói cho phép đánh giá giọng nói bệnh lý.
Hình 1.1. Dạng sóng âm của giọng nói
Trục tung thể hiện biên độ rung động, trục hoành thể hiện trường độ.
(Nigel Hewlett, Janet Mackenzie Beck (2006). An introduction to the science of
phonetics. New York: Routledge. pp. 106.)
* Biên độ (Amplitude): biên độ chỉ độ lớn của sự dao động của dây thanh
và được gọi là độ to hay cường độ. Biên độ của dao động phụ thuộc vào năng
lượng hay lực của dây thần kinh kích thích, luồng khí và áp suất hạ thanh môn.
Shimmer chỉ sự biến động, độ nhiễu loạn về biên độ giữa các chu kỳ liên
tiếp của sự rung dây thanh. Sự nhiễu loạn về biên độ (shimmer) cao làm cho tín
hiệu âm thanh mất độ trong sáng và không rõ. Về mặt cảm thụ âm học, chỉ số
shimmer liên quan đến mức độ khác nhau của giọng nói như: thô (rouhgness),
- 10 -
khàn (hoarsness), Baken R. J. (1987) và nhiều tác giả khác nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc xác định chỉ số shimmer trong việc đánh giá các RLGN [47].
Âm sắc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất thanh trong quá trình tạo
thanh (phonation), cũng như cấu trúc formant liên quan đến sự cộng hưởng.
* Chất thanh (Voice quality): chất thanh phụ thuộc vào sự tạo thanh, cách
khép lại của hai dây thanh, đặc biệt ở diện khép, thời điểm khép và sức khép:
khép phải mạnh, nhanh gọn đồng thời với mở ra nhanh gọn, kết quả tạo ra một
chất thanh sáng, rõ, trong trẻo. Những tổn thương, khuyết tật trong cấu trúc hay
chức năng thanh quản sẽ ảnh hưởng đến sự tạo thanh, tạo ra những biểu hiện
giọng nói không bình thường. Để đánh giá chất thanh, người ta thường dựa vào
chỉ số HNR (Harmonic To Noise Ratio - tỷ lệ tiếng thanh và tiếng ồn).
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây đã xuất hiện một số nghiên cứu
về các thông số của giọng nói ở người có giọng nói bình thường và người có
RLGN [12], [118], [119], [120].
1.2. Rối loạn giọng nói (Voice disorder)
1.2.1. Khái niệm về rối loạn giọng nói
Khi có thay đổi ở một trong các bộ phận của cơ quan phát âm, đều gây
nên những RLGN, trong đó RLGN do nguyên nhân ở thanh quản chiếm đa số
các trường hợp [39].
Hegde M. N. [74] đã đưa ra định nghĩa về RLGN: các rối loạn trong giao
tiếp liên quan đến sự tổn thương, khiếm khuyết ở thanh quản hay hoạt động tạo
thanh không bình thường, không phù hợp liên quan đến độ cao (pitch), cường độ
(intensity) hay chất thanh (voice quality). Rối loạn giọng nói có thể ở những mức
độ khác nhau từ hỏng giọng (dysphonia - giọng nói có những biểu hiện bệnh lý
nói chung), đến mất giọng (aphonia - mất giọng hoàn toàn do dây thanh không
rung động trong quá trình tạo thanh).
1.2.2. Dịch tễ học rối loạn giọng nói
1.2.2.1. Nghiên cứu dịch tễ học rối loạn giọng nói trên thế giới
So với các ngành khoa học Y học khác, nghiên cứu về RLGN có lẽ phát
triển sau hơn. Tuy nhiên trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, trên thế giới
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau của RLGN.
Nghiên cứu về tính phổ biến của RLGN trong cộng đồng, Roy N. và CS [132]
- 11 -
đã chọn ngẫu nhiên 1326 người trưởng thành tại Iowa và Utah vào mẫu nghiên
cứu. Bằng phương pháp phỏng vấn qua điện thoại và với bộ câu hỏi chuẩn bị
sẵn. Kết quả cho thấy 29,9% số người được hỏi có tiền sử RLGN, trong đó 6,6%
số người đang bị RLGN.
Mathieson L. nghiên cứu tại một bệnh viện ở London, thấy rằng tỷ lệ mới
mắc RLGN trong cộng đồng là 121/100.000 người/năm [104].
Theo kết quả nghiên cứu của Julian P. L. và CS tại Tây Ban Nha, tỷ lệ
mới mắc RLGN là 3,87/1000 GV/năm [89].
Ở Hoa Kỳ, người ta cho rằng người cao tuổi chiếm tỷ lệ RLGN cao hơn,
tỷ lệ này ước tính từ 12% - 35% (Ward P. H. và CS 1989) [154].
Nghiên cứu mối liên quan giữa giới tính với RLGN, Roy N. [132] nhận
thấy: so với nam giới, phụ nữ không chỉ mắc các RLGN nhiều hơn (46,3% ở nữ
giới và 36,9% ở nam giới), mà họ cũng có tỷ lệ mắc các rối loạn mạn tính cao
hơn. Các tác giả khác như: Julian P. L. và CS (Tây Ban Nha) [89]; Alison R. và CS
(phía Nam nước Úc) [41], cũng có những đánh giá tương tự về vấn đề này: tỷ lệ
mắc RLGN ở nữ giới cao hơn gấp 2 - 3 lần so với nam giới.
Rối loạn giọng nói ở trẻ em dường như cũng bị ảnh hưởng bởi yếu tố môi
trường xã hội, vấn đề này đã được Multinovic Z. [112] nêu ra khi nghiên cứu
trên 362 trẻ em, có độ tuổi từ 12 - 13. Tác giả thấy rằng 43,67% trẻ em khu vực TP
mắc RLGN, trong khi tỷ lệ này của trẻ sống ở vùng nông thôn chỉ có 3,92%.
Williams N. R. [156] đã nhận thấy RLGN mang tính chất nghề nghiệp rõ
rệt. Phân tích những số liệu được thống kê từ nhiều nghiên cứu khác, Ramig L. O.
và Verdolini K. (1998) [127] đã đưa ra nhận xét tương tự: RLGN cường năng
(hyperfuntional dysphonia) (do hành vi) đứng hàng đầu trong các RLGN và
thường gặp ở những người phải sử dụng giọng nói một cách quá mức.
Tham khảo số liệu của vụ Thống kê lao động và các nguồn khác ở Mỹ (số
liệu 1994), Ingo R. và CS (1997) [81] đã kết luận: những người bán hàng chiếm
tỷ lệ lớn nhất trong số những người lao động sử dụng giọng nói chuyên nghiệp
(13%), thứ hai là GV (4,2%). Trong đó, GV được xác định là nghề có tỷ lệ mắc
RLGN lớn nhất.
Bozena K. H. [54] nghiên cứu trên 374 bệnh nhân đã được điều trị tại
phòng khám tai mũi họng và phòng khám thanh học của khoa tai mũi họng,
trường đại học Y Bialystock - Ba Lan, trong thời gian 1999 - 2001. Trong đó có