Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh Giá Hiệu Quả Sinh Thái Và Kinh Tế Tiềm Tàng Của Rừng Phòng Hộ Đầu Nguồn Tại Hòa Bình
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------
DƯƠNG THANH HẢI
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SINH THÁI VÀ KINH TẾ
TIỀM TÀNG CỦA RỪNG PHÒNG HỘ ĐẦU NGUỒN
TẠI HOÀ BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Hà Nội, 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, việc xác định đầy đủ giá trị của rừng, đặc biệt là giá trị sinh
thái và giá trị kinh tế đã trở thành một vấn đề cần thiết và hấp dẫn trên khắp
toàn cầu. Vấn đề này càng bức bách và chứa đựng tầm quan trọng nổi bật khi
nguy cơ suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt ở nhiều nơi
theo hướng bất lợi cho con người.
Để xác định giá trị của rừng, một trong những hướng nghiên cứu thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học là đánh giá hiệu quả sinh thái
và kinh tế tiềm tàng của rừng phòng hộ đầu nguồn - một loại rừng có diện tích
khá lớn ở Việt Nam. Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, hiệu quả sinh thái
được thể hiện rõ nét qua ảnh hưởng của nó đến nguồn nước, xói mòn đất và
không khí, còn hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua khả năng cung cấp
lâm sản hoặc dịch vụ môi trường rừng cho kinh doanh. Tất cả những khả năng
này cần được biểu hiện thông qua những chỉ tiêu định lượng, có thể xác định
để làm cơ sở cho việc so sánh, đánh giá và đề ra những giải pháp phù hợp
nhằm phát huy tối đa các lợi ích của rừng.
Mặc dù vậy, cho đến nay ở vùng phòng hộ đầu nguồn Hòa Bình, những
nghiên cứu về vấn đề này còn rất hạn chế, ít ỏi và chưa được hệ thống. Điều
này được thể hiện như sau:
- Nghiên cứu đồng thời về hiệu quả sinh thái và kinh tế của rừng còn
hạn chế.
- Đối tượng rừng nghiên cứu còn ít, chưa lựa chọn đầy đủ các trạng thái
thực bì rừng khác nhau, với các mức độ suy thoái, phục hồi hoặc diễn thế
khác nhau.
- Ít nghiên cứu định lượng, nên chưa đủ cơ sở khoa học cho việc so
sánh, phân hạng rừng theo hiệu quả sinh thái và kinh tế.
2
Hạn chế này đã làm chậm tiến trình xác định giá trị dịch vụ môi trường
rừng, lượng giá rừng, chưa thúc đẩy quá trình quản lý rừng bền vững ở khu
vực.
Để góp phần giải quyết vấn đề trên, đề tài “Đánh giá hiệu quả sinh
thái và kinh tế tiềm tàng của rừng phòng hộ đầu nguồn tại Hoà Bình" đã
được thực hiện.
Phương hướng của đề tài là xác định những chỉ tiêu biểu thị hiệu quả
sinh thái và kinh tế tiềm tàng của rừng phòng hộ đầu nguồn, thông qua khả
năng hoặc lợi ích lớn nhất mà rừng có thể gây ảnh hưởng về sinh thái và kinh
tế trong điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội hiện có, qua đó giảm thiểu tác
động xấu đến môi trường của các hiện tượng diễn ra trong thiên nhiên hoặc
mở ra cơ hội cho kinh doanh rừng. Vì nguồn lực nghiên cứu có hạn, sau khi
xác định các chỉ tiêu biểu thị hiệu quả sinh thái và kinh tế tiềm tàng của rừng,
đề tài chỉ so sánh và xếp hạng các trạng thái thảm thực vật theo hiệu quả sinh
thái và kinh tế tiềm tàng bằng phương pháp đơn giản.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Ở Ngoài nước
1.1.1. Thành quả nghiên cứu
1.1.1.1. Nghiên cứu về hiệu quả giữ nước của rừng phòng hộ đầu nguồn
Trên thế giới, việc nghiên cứu về hiệu quả giữ nước của rừng đã thu
được nhiều thành quả, trong đó đáng chú ý là những thành quả có liên quan
đến việc định lượng một số thành phần cân bằng nước trong hệ sinh thái rừng.
a. Hiệu quả giữ nước của vật rơi rụng trong rừng
Vật rơi rụng có khả năng ngăn giữ nước tương đối lớn, nên có tác dụng
bổ sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật (Vu Chí Dân & Vương
Lễ Tiên, 2001) [3]. Ngoài ra, do vật rơi rụng có những lỗ hổng lớn và nhiều,
nên lượng nước ngăn giữ bởi vật rơi rụng dễ dàng bốc hơi đi. Những nghiên
cứu của Black và Kelliher (1989) (dẫn theo Vu Chí Dân & Vương Lễ Tiên
(2001) [3] cho thấy, lượng nước bốc hơi từ vật rơi rụng của các kiểu rừng
khác nhau chiếm khoảng 3 - 21% tổng lượng nước bốc hơi trên mặt đất rừng.
Schaap và Bouten (1997) (dẫn theo Vu Chí Dân & Vương Lễ Tiên (2001) [3]
đã sử dụng thiết bị đo lường Lysimeter để xác định lượng nước bốc hơi của
vật rơi rụng, đồng thời dùng phương trình Penman - Monteith để mô phỏng
tốc độ bốc hơi nước của vật rơi rụng và sự khác biệt của nhiệt độ không khí
trên bề mặt của nó đến độ cao một mét, đã thu được kết quả tốt.
b. Hiệu quả thấm và giữ nước của đất rừng
Sự thấm nước của đất là một trong những vấn đề được nghiên cứu sâu
rộng trong lĩnh vực thủy văn học, nó có tác dụng rất quan trọng trong việc
hình thành cơ chế phát sinh dòng chảy. Nhìn chung, đất rừng có tốc độ thấm
nước lớn hơn so với đất dưới các thảm thực vật khác, tốc độ thấm nước ổn
định của đất rừng có thể đạt 800 mm/giờ trở lên (Dunne T, 1978) [43]. Theo
4
tác giả Trần Huệ Tuyền (1994) [35], đất rừng có độ hổng ngoài mao quản
lớn, nên tốc độ thấm nước và lượng nước thấm của đất rừng tăng lên. Có thể
mô phỏng quá trình nước thấm xuống đất rừng theo mô hình Philip (Diêu Hoa
Hạ, 1989 [14]; Thẩm Băng và Nông Tấn, 1992 [1]).
Lượng nước giữ trong đất rừng là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh
giá hiệu quả nuôi dưỡng nguồn nước của rừng.
Các nhà khoa học ở Trung Quốc thường dùng lượng nước bão hòa các
lỗ hổng ngoài mao quản trong đất rừng để tính toán lượng nước thấm xuống
đất. Theo các kết quả nghiên cứu, mỗi héc ta đất rừng có thể tích giữ được
lượng nước 641 - 679 tấn/năm (dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006) [12].
c. Hiệu quả phòng lũ của rừng
FAO (1995) (dẫn từ Vũ Tấn Phương, 2009) [23] cho rằng, rừng có tác
dụng rất quan trọng trong việc điều tiết dòng chảy, giảm lưu lượng nước mặt,
góp phần làm giảm lũ lụt. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, lũ lụt là một
hiện tượng tự nhiên mà trong đó những dòng sông xả nước thừa sau những
trận mưa lớn. Đối với những lưu vực nhỏ, người ta thấy rất rõ rằng độ che phủ
của rừng có thể làm giảm thiểu lượng nước lũ chảy xuống hạ lưu. Đối với
những trận lũ có sức tàn phá rất lớn thì dường như chưa có cơ sở khoa học để
xem xét sự liên quan của chúng đến mất rừng - trong những điều kiện khí hậu
đó, đặc biệt là tổng lượng mưa năm và tần suất xuất hiện của những trận bão
lớn là những nhân tố rất quan trọng.
1.1.1.2. Nghiên cứu hiệu quả bảo vệ, cải tạo đất của thảm thực vật rừng
a. Nghiên cứu về xói mòn đất
Công trình nghiên cứu đầu tiên về xói mòn đất và dòng chảy được thực
hiện bởi nhà bác học Volni người Đức trong thời kỳ 1877 đến 1885 (Hudson
N, 1981 [17]). Trong công trình này, Volni đã nghiên cứu ảnh hưởng của loại
5
đất và độ dốc mặt đất tới dòng chảy và xói mòn đất. Tuy nhiên, phần lớn các
kết luận chưa được định lượng một cách rõ ràng.
Bằng các thí nghiệm trong phòng, Ellison (dẫn theo Hudson N, 1981
[17]) là người đầu tiên phát hiện ra vai trò của lớp phủ thực vật trong việc hạn
chế xói mòn đất và vai trò cực kỳ quan trọng của hạt mưa rơi đối với xói mòn.
Phát hiện của Ellison đã mở ra phương hướng sử dụng cấu trúc thảm thực vật
trong các biện pháp chống xói mòn nhằm bảo vệ độ phì của đất. Các nghiên
cứu xói mòn bắt đầu chuyển sang nghiên cứu định lượng, xác định cơ chế xói
mòn, tìm công thức toán học để mô phỏng quá trình xói mòn. Nhờ các
phương tiện hiện đại, người ta đã nghiên cứu xói mòn không chỉ trong điều
kiện tự nhiên mà cả trong điều kiện nhân tạo (mưa nhân tạo, độ dốc nhân tạo,
độ che phủ nhân tạo).
Kết quả nghiên cứu của G. Fiebiger (1993) [44] xác nhận rằng, nguy cơ
xói mòn đất dưới tầng cây gỗ có thể tăng lên do giọt mưa dưới tán rừng có
kích thước lớn hơn. Những loài cây có phiến lá to (như lá Tếch - Tectona
grandis) thường tạo ra các giọt nước ngưng đọng với kích thước lớn, nên khi
rơi từ tán lá trên cao xuống sẽ có sức công phá bề mặt đất lớn hơn so với sức
công phá của giọt mưa tự nhiên trên đất trống. Loài Albizzia falcataria với
tầng tán cao 20 m so với mặt đất, tạo ra giọt mưa có năng lượng gây xói mòn
bằng 102% so với năng lượng của giọt mưa ở nơi trống. Loài Anthocephalus
chinensis với phiến lá to và tầng tán cao 10 m, lại tạo nên những hạt nước rơi
có năng lượng gây xói mòn bằng 147% so với năng lượng của hạt mưa rơi tự
nhiên (G. Fiebiger, 1993) [44]. Vì vậy, một trong những tiêu chí chọn loại cây
trồng rừng phòng hộ đầu nguồn ở vùng nhiệt đới là chọn cây có tán lá dày
rậm nhưng có phiến lá nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Những nghiên cứu khác cho
thấy rằng, cây bụi, thảm tươi và vật rơi rụng có vai trò rất lớn trong việc hạn
6
chế xói mòn đất. Nếu chúng bị phá trụi hoặc bị lấy đi khỏi đất rừng thì tác
dụng hạn chế xói mòn đất của rừng sẽ giảm.
b. Nghiên cứu về khả năng làm tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất
của rừng
Độ phì của đất đóng vai trò cực kỳ quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp
đến sinh trưởng và năng suất cây trồng. Ngược lại các loài cây khác nhau
cũng có ảnh hưởng khác nhau đến độ phì đất. Trong những năm gần đây có
một số công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề này và mới chỉ nghiên cứu cho
từng đối tượng cây trồng cụ thể. Mối quan hệ giữa sinh trưởng của Tếch
(Tectona grandis) và một số yếu tố đất được xây dựng thông qua phương
trình: R = 1/3 (P x S) (Week, 1970) [48], trong đó R là lượng tăng trưởng
hàng năm (m3
/ha); P là độ dày của tầng đất (cm) và S là độ no bazơ (mg/100
đất).
Chakraborty. R. N và Chakraborty. D (1989) [40] đã nghiên cứu về sự
thay đổi tính chất đất dưới rừng Keo lá tràm ở các tuổi 2, 3 và 4, các tác giả
cho rằng rừng trồng Keo lá tràm cải thiện đáng kể một số tính chất độ phì đất
như độ chua của đất biến đổi 5,9 - 7,6; khả năng giữ nước của đất tăng từ
22,9% lên 32,7%, chất hữu cơ tăng từ 0,81% lên 2,70%, đạm tăng từ 0,36 lên
0,50% và đặc biệt màu sắc của đất cũng biến đổi một các rõ rệt từ màu nâu
vàng sang màu nâu.
Ohta (1993) [46] nghiên cứu về sự thay đổi tính chất đất do việc trồng
rừng Keo lá tràm ở vùng Pantabagan, Philippin. Tác giả đã xem xét sự biến
đổi tính chất đất dưới rừng Keo lá tràm 5 năm tuổi và rừng Thông ba lá 8 tuổi
trồng trên đất thoái hoá nghèo kiệt. Kết quả của tác giả cho thấy trồng rừng đã
làm thay đổi dung trọng và độ xốp của đất ở tầng 0 – 5 cm theo hướng tích
cực. Tuy nhiên, lượng Ca2+ ở tầng đất mặt dưới 2 loại rừng lại thấp hơn so với
đối chứng (đất trống).
7
Trong những năm gần đây, Trung tâm Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) đã
nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho trồng rừng ở các nước
nhiệt đới. CIFOR đã tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng là bạch đàn,
thông, keo trồng thuần loại trên các lập địa khác nhau ở các nước Congo,
Brazil, Nam Phi, Indonesia, Trung Quốc và Ấn Độ. Kết quả nghiên cứu cho
thấy các biện pháp xử lý lập địa khác nhau và các loài cây trồng khác nhau đã
có ảnh hưởng rất khác nhau đến độ phì của đất, cân bằng nước, sự phân huỷ
thảm thực vật và chu trình dinh dưỡng khoáng (CIFOR, 1999) [41], [42].
c. Hiệu quả của rừng trong việc làm giảm hàm lượng chất rắn gây ô
nhiễm
Kết quả quan trắc trên lưu vực nhỏ rừng Thông đỏ (6 ha) núi đá hóa
cương (đá Granit) ở huyện Từ Hạ, Nhật Bản cho thấy, hàm lượng thành phần
các chất hóa học của dòng chảy đã phát sinh nhiều biến đổi trong quá trình từ
khi nước lọt qua tán rừng hoặc chảy xuống dọc theo thân cây, sau đó tuồn ra
các khe suối. Hàm lượng của các chất Na, K, Ca, Mg, P và đạm dạng
Nitrate... của nước mưa dưới tán rừng và dòng chảy dọc theo thân cây đều có
biểu hiện tăng lên, mà biên độ tăng lên ở dòng chảy dọc theo thân cây tương
đối lớn, mức độ tăng lên của hàm lượng Na trong dòng chảy trên mặt đất cũng
tương đối lớn, còn hàm lượng đạm Nitrate và đạm Amon lại giảm đi tương
đối nhiều (dẫn theo Phạm Văn Điển, 2009) [13].
1.1.1.3. Nghiên cứu về hiệu quả tích tụ carbon của rừng
Trong những năm gần đây các phương pháp nghiên cứu định lượng,
xây dựng các mô hình dự báo sinh khối cây rừng đã được áp dụng thông qua
các mối quan hệ giữa sinh khối cây với các nhân tố điều tra cơ bản, dễ đo đếm
như đường kính ngang ngực, chiều cao cây, giúp cho việc dự đoán sinh khối
được nhanh hơn, đỡ tốn kém hơn. Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện
và có hệ thống về lượng carbon tích lũy của rừng được thực hiện bởi Ilic
8
(2000) và Mc Kenzie (2001). Theo Mc Kenzie (2001), carbon trong hệ sinh
thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính: Thảm thực vật còn sống trên
mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng. Việc xác định lượng carbon trong
rừng thường được thực hiện thông qua xác định sinh khối rừng. Qua nghiên
cứu các nhà khoa học đã cố gắng xác định quy mô của các vùng dự trữ carbon
toàn cầu và sự đóng góp của rừng vào các vùng dự trữ cũng như những thay
đổi về lượng carbon được dự trữ như: Bolin (1977); Post, Emanuel và cộng
sự (1982); Detwiler và Hall (1988); Brown, Hall và cộng sự (1993); Dixon,
Brown (1994); Malhi, Baldocchi (1999) (dẫn theo Võ Đại Hải và cộng sự,
2009) [15].
1.1.1.4. Hiệu quả kinh tế của chức năng giữ nước, bảo vệ đất và tích tụ
carbon
Nghiên cứu về rừng đầu nguồn ở lưu vực sông ở Vân Nam - Trung
Quốc liên quan đến khả năng giữ đất, nước và phân bón của rừng cho thấy giá
trị này là khoảng 4.450,5 NDT (khoảng 8.455.855 VND, tỷ giá 1 NDT =
1.900 VNĐ) chiếm 87,9% trong khi đó giá trị trực tiếp (than củi, gỗ) là 528.5
NDT (khoảng 1.384.245 VNĐ) chiếm 12,1% (Chương Gia Binh, 2003) (dẫn
theo Vũ Tấn Phương, 2009) [23].
Các nhà khoa học Trung Quốc đã khẳng định vai trò của rừng trong
việc giữ đất và nước là lớn hơn nhiều so với giá trị kinh tế trực tiếp mà nó
mang lại. Trần Huệ Tuyền (1994) [35] đã nghiên cứu khả năng giữ nước của
rừng vùng đầu nguồn hồ Tùng Hoa - Côn Minh (Trung Quốc) cho thấy, diện
tích rừng đầu nguồn 60.000 ha, với độ tàn che 30% hàng năm giữ được
khoảng 8,3 triệu mét khối nước.
Với sự ra đời của Nghị định thư Kyoto, vai trò của rừng trong việc hấp
thụ khí carboníc (CO2) đã được khẳng định. Một khu rừng nguyên sinh có thể
hấp thu được 280 tấn carbon/ha và sẽ giải phóng 200 tấn carbon nếu bị
9
chuyển thành đất du canh du cư và sẽ giải phóng nhiều hơn một chút nếu
được chuyển thành đồng cỏ hay đất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ
khoảng 115 tấn carbon và con số này sẽ giảm từ 1/3 đến 1/4 khi rừng bị
chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp (Brown và Pearce, 1994) [39].
Theo Camille banh và Bruce Aylward (1994) giá trị hấp thụ CO2 của
các khu rừng tự nhiên nhiệt đới khoảng từ 500 - 2.000 USD/ha và giá trị này
với rừng ôn đới được ước tính ở mức từ 100 - 300 USD (Zhang, 2000). Giá
trị kinh tế về hấp thụ CO2 ở rừng Amazon được ước tính là 1.625
USD/ha/năm, trong đó rừng nguyên sinh là 4.000 - 4.400 USD/ha/năm, rừng
thứ sinh là 1.000 - 3.000 USD/ha/năm và rừng thưa là 600 - 1.000
USD/ha/năm (dẫn theo Vũ Tấn Phương, 2009) [23].
1.1.1.5. Nghiên cứu về giá trị kinh tế của thảm thực vật rừng
Rừng có vai trò rất quan trọng đối với đời sống con người, đặc biệt là
người dân và cộng đồng miền núi. Hai chức cơ bản của rừng là: (i) Cung cấp
các sản phẩm trực tiếp như gỗ, củi, LSNG, …. và (ii) Cung cấp chức năng
“sinh thái”, nghĩa là cung cấp các dịch vụ môi trường như duy trì, điều tiết
nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện, bảo
vệ đất chống xói mòn, hấp thụ carbon, môi trường sống cho hệ động thực
vật,...
Trước đây, khái niệm về tổng giá trị kinh tế của rừng (Total Economic
Value - TEV) được xem xét rất hạn hẹp. Các nhà kinh tế thường có xu hướng
chỉ xem xét giá trị của rừng thông qua các lượng sản phẩm hữu hình mà rừng
đã tạo ra để phục vụ cho các nhu cầu sản xuất và tiêu thụ của con người. Tuy
nhiên, các sản phẩm có thể sử dụng trực tiếp này chỉ thể hiện được một phần
nhỏ trong tổng giá trị của rừng. Trong thực tế, rừng đã tạo ra một lợi ích kinh
tế vượt xa giá trị của các sản phẩm hữu hình đang được buôn bán chính thức
trên thị trường. Dần dần, định nghĩa về giá trị kinh tế của rừng đã thay đổi.
10
Đến nay, khái niệm này đã trở thành một trong những khuôn khổ để xác định
và phân loại các lợi ích của rừng. Muốn xem xét tổng giá trị của rừng phải
xem xét toàn bộ giá trị của các nguồn tài nguyên, các dòng dịch vụ môi
trường và các đặc tính của toàn bộ hệ sinh thái như một thể thống nhất. Tổng
giá trị kinh tế của rừng được mô tả như sau: Theo mô hình này, tổng giá trị
kinh tế của rừng bao gồm giá trị sử dụng và giá trị chưa sử dụng.
Các giá trị của rừng được hiểu như sau:
+ Các giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value – DUV): Là giá trị
của những nguyên liệu thô và những sản phẩm vật chất được sử dụng trực tiếp
trong các hoạt động sản xuất, tiêu dùng và mua bán của con người như gỗ,
củi, thức ăn, cây thuốc, vật liệu gien,...
+ Các giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value – IUV): Là giá trị
kinh tế của các dịch vụ môi trường và chức năng sinh thái mà rừng tạo ra
như duy trì chất lượng nước, giữ dòng chảy, điều tiết lũ lụt, kiểm soát xói
mòn, phòng hộ đầu nguồn, hấp thụ carbon,...
+ Các giá trị lựa chọn (Option Value – OP): Là giá trị hiện tại có thể
chưa được biết đến của nguồn gien, các loài động vật hoang dã trong rừng và
các chức năng sinh thái rừng khi chúng được đưa vào ứng dụng trong lĩnh
vực giải trí, dược phẩm, nông nghiệp, trong tương lai.
+ Các giá trị để lại (Bequest Value – BV): Là những giá trị trực tiếp
hoặc gián tiếp mà các thế hệ sau có cơ hội được sử dụng.
+ Các giá trị tồn tại (Existence Value – EV): Là giá trị nội tại đi kèm
với sự tồn tại của các loài trong rừng và hệ sinh thái rừng mà không kể đến
việc sử dụng trực tiếp như ý nghĩa về văn hoá, thẩm mỹ, di sản, kế thừa...
Thực tế cũng cho thấy, giá trị của rừng là rất khác nhau tuỳ thuộc vào
từng loại rừng và điều kiện cụ thể. Trong những năm qua, nhiều nghiên cứu
đã tập trung xác định giá trị của rừng từ các khía cạnh khác nhau.
11
Có thể thấy, giá trị của rừng là rất to lớn mà đặc biệt là giá trị môi
trường và dịch vụ môi trường của rừng. Giá trị môi trường và dịch vụ môi
trường của rừng ngày càng được thừa nhận. Cơ cấu giá trị môi trường của
rừng là: Hấp thụ carbon chiếm 27%; bảo tồn đa dạng sinh học chiếm 25%;
bảo vệ đầu nguồn chiếm 21%; …. Các nhà khoa học đã ước lượng giá trị dịch
vụ do hệ sinh thái rừng mang lại trên toàn trái đất là khoảng 33.000 tỷ
USD/năm. (The World Bank Research Observe, 1998) [47].
1.1.2. Những tồn tại chính
Mặc dù đã thu được nhiều thành quả trong thời gian qua, nhưng việc
nghiên cứu hiệu quả sinh thái và kinh tế của rừng trên thế giới vẫn còn tồn tại
nhiều vấn đề cấp bách cần được giải quyết.
- Việc nghiên cứu định lượng hiệu quả sinh thái của rừng phòng hộ đầu
nguồn còn hạn chế. Số lượng chỉ tiêu phản ánh hiệu quả giữ nước và bảo vệ
đất của rừng phòng hộ còn ít. Còn thiếu nhiều dẫn liệu phản ánh hiệu quả bảo
vệ độ phì đất, phòng chống ô nhiễm và sinh thái đất, hiệu quả tạo bể chứa
carbon của đất rừng.
- Còn khó khăn trong việc xác định phương pháp đánh giá hiệu quả
tổng của rừng. Các nghiên cứu chỉ tập trung nhấn mạnh tầm quan trọng của
rừng mà chưa tiền tệ hoá được các giá trị này, cũng như chưa đề xuất được
một mô hình về thị trường chung cho đối tượng này.
- Còn nghi vấn, tranh luận về hiệu quả sinh thái của rừng. Chẳng hạn
rừng có làm tăng lượng mưa? Rừng có làm tăng lượng nước bốc thoát hơi hay
không? Đây là những vấn đề chưa có giải đáp thỏa đáng.