Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây tê tủy sống và gây tê tủy sống – ngoài màng cứng phối hợp để mổ lấy thai ở bệnh nhân tiền sản giật nặng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN ĐỨC LAM
§¸NH GI¸ HIÖU QU¶ CñA PH¦¥NG PH¸P G¢Y T£ TñY SèNG
Vµ G¢Y T£ TñY SèNG – NGOµI MµNG CøNG PHèI HîP
§Ó Mæ LÊY THAI ë BÖNH NH¢N TIÒN S¶N GIËT NÆNG
Chuyên ngành: Gây mê hồi sức
Mã số: 62 72 33 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
HÀ NỘI – 2013
2
CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Hữu Tú
PGS.TS. Nguyễn Quốc Tuấn
3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiền sản giật (TSG) là một hội chứng bệnh lý phức tạp, gồm hai triệu
chứng chính là: tăng huyết áp và protein niệu. TSG nặng khi huyết áp tăng
cao > 160/110 mmHg hoặc có một trong các triệu chứng nhƣ: đau đầu, rối
loạn thị lực, protein niệu > 3,5 g/l, suy gan, thận, giảm tiểu cầu … Bệnh
thƣờng xảy ra ở ba tháng cuối của thời kỳ thai nghén, có thể gây ra những
biến chứng nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng của bà mẹ, thai nhi và trẻ sơ
sinh. TSG có thể xảy ra ở tất cả các nƣớc trên thế giới, ở cả các nƣớc phát
triển và đang phát triển. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của TSG đến nay vẫn
chƣa đƣợc chứng minh và hiểu biết đầy đủ [155]. Tỷ lệ mắc TSG thay đổi
theo từng khu vực trên thế giới: tại Hoa Kỳ là 5 - 6%, tại Cộng hoà Pháp là
5%, tại Việt Nam là 3 - 5%. Có nhiều phƣơng pháp, nhiều loại thuốc điều trị
bệnh nhƣng cách điều trị triệt để và hiệu quả nhất là đình chỉ thai nghén, chủ
yếu bằng mổ lấy thai [46], [48].
Vô cảm để mổ lấy thai an toàn cho cả mẹ và con ở các bệnh nhân TSG
nặng có huyết áp cao kèm theo các rối loạn toàn thân khác nhƣ rối loạn
chức năng gan, thận, đông máu…là một thách thức lớn đối với các nhà gây
mê hồi sức (GMHS) sản khoa [89], [93].
Trong mổ lấy thai ở thai phụ khỏe mạnh, gây tê tủy sống (GTTS) là lựa
chọn hàng đầu vì kỹ thuật đơn giản, cho phép xác định chính xác vị trí kim,
thời gian khởi tê nhanh, chất lƣợng vô cảm tốt với một lƣợng nhỏ thuốc tê và
cho phép tránh đƣợc các nguy cơ của gây mê nội khí quản (NKQ) nhƣ: đặt
NKQ khó, trào ngƣợc dịch dạ dày vào phổi, ức chế sơ sinh…Nhƣng trƣớc
đây, GTTS không đƣợc khuyên dùng cho TSG nặng vì sợ rằng sự giảm thể
tích tuần hoàn của các thai phụ TSG nặng có thể gây tụt huyết áp nặng sau
GTTS và sẽ gây giảm lƣu lƣợng máu tử cung – rau. Các nghiên cứu gần đây
đã đƣa ra các bằng chứng ủng hộ GTTS trong TSG nặng vì tỷ lệ tụt huyết áp
sau GTTS ở thai phụ TSG không có sự khác biệt với tỷ lệ tụt huyết áp sau gây
4
tê NMC và thấp hơn so với thai phụ bình thƣờng [70], [82], [106], [138],
[146]. Tuy nhiên, những bằng chứng này vẫn chƣa phải là kết luận, do đó các
tác giả khuyến cáo cần phải có những thử nghiệm lâm sàng lớn để đánh giá lại
việc sử dụng GTTS trong TSG nặng [63]. Theo Moslem, cách tốt nhất để
tránh tụt huyết áp là giảm liều thuốc tê trong GTTS [120]. Tuy nhiên, để đảm
bảo hiệu quả vô cảm tốt, độ giãn cơ tốt, thì liều thuốc tê trong GTTS không
đƣợc giảm quá nhiều [91]. Phƣơng pháp gây tê tủy sống – ngoài màng cứng
phối hợp (GTTS – NMC phối hợp) kết hợp đƣợc các ƣu điểm của GTTS (thời
gian khởi tê nhanh, chất lƣợng vô cảm rất tốt…) và gây tê NMC (có thể tiêm
thêm thuốc tê khi mức tê chƣa đủ và có thể sử dụng để giảm đau sau mổ) mà
không làm tăng tác dụng phụ của hai phƣơng pháp này [91], [124]. Do đó,
GTTS – NMC phối hợp đã đƣợc áp dụng ở nhiều nƣớc trên thế giới trong đó
có Việt Nam.
Gây mê toàn thân trong TSG nặng có rất nhiều nguy cơ (đặt NKQ khó
do phù nề đƣờng thở, gây tăng huyết áp thoáng qua nhƣng nghiêm trọng khi
đặt NKQ có thể gây xuất huyết não…) do đó chỉ nên sử dụng khi chống chỉ
định của gây tê vùng. Tuy nhiên, theo một số báo cáo trong nƣớc thì tỷ lệ gây
mê vẫn còn khá cao [65]. Tại Việt Nam, cũng chƣa có nghiên cứu nào về việc
lựa chọn phƣơng pháp vô cảm cho mổ lấy thai ở thai phụ tiền sản giật nặng. Từ
thực tế đó, tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây tê
tủy sống và gây tê tủy sống – ngoài màng cứng phối hợp để mổ lấy thai ở
bệnh nhân tiền sản giật nặng”.
Nhằm hai mục tiêu:
1. So sánh hiệu quả vô cảm để mổ và giảm đau sau mổ của phương
pháp gây tê tuỷ sống, gây tê tuỷ sống phối hợp ngoài màng cứng với
gây mê nội khí quản trong mổ lấy thai ở bệnh nhân tiền sản giật
nặng.
2. So sánh các biến chứng và một số tác dụng không mong muốn của
các phương pháp vô cảm trên đối với mẹ và con.
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU, SINH LÝ CỦA PHỤ NỮ CÓ THAI LIÊN
QUAN ĐẾN GÂY MÊ HỒI SỨC
1.1.1. Cột sống, các khoang và tủy sống
- Cột sống đƣợc cấu tạo bởi 32 - 33 đốt sống hợp lại với nhau từ lỗ chẩm
đến mỏm cụt, các đốt sống xếp lại với nhau tạo thành hình cong chữ S. Giữa
hai gai sau của hai đốt sống nằm cạnh nhau là các khe liên đốt. Khi ngƣời phụ
nữ mang thai, cột sống bị cong ƣỡn ra trƣớc do tử cung có thai, nhất là ở
tháng cuối, làm cho khe giữa hai gai đốt sống hẹp hơn ngƣời không mang
thai, điểm cong ƣỡn ra trƣớc nhất là L4 do vậy, khi ở tƣ thế nằm ngửa, điểm
L4 tạo đỉnh cao nhất, điều này cần lƣu ý để dự đoán độ lan tỏa của thuốc tê
nhất là thuốc tê tỷ trọng cao [29], [44], [49], [59].
- Các dây chằng: dây chằng trên gai là dây chằng phủ lên gai sau đốt
sống, dây chằng liên gai liên kết các gai sống với nhau, ngay trong dây chằng
liên gai là dây chằng vàng.
- Màng cứng chạy từ lỗ chẩm đến đốt sống xƣơng cùng, bọc phía ngoài
khoang dƣới nhện, màng nhện áp sát vào mặt trong màng cứng.
- Các khoang: khoang NMC là một khoang ảo giới hạn phía sau là dây
chằng vàng, phía trƣớc là màng cứng, trong khoang chứa mô liên kết, mạch
máu và mỡ. Khoang NMC có áp suất âm, do đó khi màng cứng bị thủng, dịch
não tủy tràn vào khoang NMC là một trong những nguyên nhân gây đau đầu.
- Dịch não tủy (DNT): phần lớn đƣợc sản xuất từ đám rối mạch mạc ở các
não thất, đƣợc lƣu thông với khoang dƣới nhện qua lỗ Magendie và lỗ Luschka,
phần nhỏ đƣợc tạo ra từ tủy sống. DNT đƣợc hấp thu vào máu bởi các búi mao
mạch nhỏ nằm ở xoang tĩnh mạch dọc (hạt Pachioni). Tuần hoàn DNT rất
chậm, vì vậy khi đƣa thuốc vào khoang dƣới nhện, thuốc sẽ khuếch tán trong
DNT là chính [44], [49].
6
+ Áp suất DNT đƣợc điều hòa rất chặt chẽ bởi sự hấp thu của DNT
qua nhung mao của màng nhện bởi vì tốc độ sản xuất DNT rất hằng định.
Khi ngƣời phụ nữ có thai, tử cung chèn ép vào tĩnh mạch chủ dƣới nên hệ
thống tĩnh mạch quanh màng nhện bị giãn do ứ máu, do đó khi gây tê liều
thuốc tê phải giảm hơn ở ngƣời bình thƣờng [49].
+ Tuần hoàn của DNT: sự tuần hoàn của DNT bị ảnh hƣởng bởi các yếu
tố: mạch đập của động mạch, thay đổi tƣ thế, một số các thay đổi áp lực trong ổ
bụng, trong màng phổi...Các thuốc có độ hòa tan trong mỡ cao sẽ thấm nhanh
qua hàng rào máu não và bị đào thải nhanh chóng hơn so với các thuốc ít hoà tan
trong mỡ, vì vậy fentanyl có tác dụng ngắn còn morphin có tác dụng kéo dài.
- Tủy sống nằm trong ống sống tiếp theo hành não tƣơng đƣơng từ đốt
sống cổ 1 đến ngang đốt lƣng 2, phần đuôi tủy sống hình chóp, các rễ thần
kinh chi phối thắt lƣng, cùng cụt tạo ra thần kinh đuôi ngựa. Mỗi một khoanh
tủy chi phối cảm giác, vận động ở một vùng nhất định của cơ thể, các sợi cảm
giác từ thân và đáy tử cung đi kèm với các sợi giao cảm qua đám rối chậu đến
D11, D12, các sợi cảm giác từ cổ tử cung và phần trên âm đạo đi kèm các thần
kinh tạng chậu hông đến S2, S3, S4. Các sợi cảm giác từ phần dƣới âm đạo và
đáy chậu đi kèm các sợi cảm giác thân thể qua thần kinh thẹn đến S2, S3, S4.
Vì thế GTTS để mổ lấy thai cần đạt độ phong bế cảm giác tối thiểu tới D10.
Nhƣng trong thực tế do sự phát triển của tử cung lên cao gây ảnh hƣởng tới
các tạng trong ổ bụng, vì vậy muốn bệnh nhân hoàn toàn không có cảm giác
khó chịu trong mổ và đảm bảo thuận lợi cho phẫu thuật thì mức phong
bế phải lên cao hơn, tới D4. Khi đƣa thuốc tê vào tủy sống, thuốc tê sẽ ức
chế tạm thời cả cảm giác, vận động, do đó, có tác dụng giảm đau và giãn
cơ tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật viên lấy thai [29].
- Hệ thần kinh thực vật:
+ Hệ thần kinh giao cảm: sợi tiền hạch bắt nguồn từ tế bào sừng bên
tủy sống từ D1 – L2 theo đƣờng đi của rễ sau đến chuỗi hạch giao cảm
cạnh sống để tiếp xúc với các sợi hậu hạch. Hệ thần kinh giao cảm chi
7
phối rất nhiều cơ quan quan trọng nên khi bị ức chế, các biến loạn về
hô hấp, tuần hoàn sẽ xảy ra.
+ Hệ thần kinh phó giao cảm: Các sợi tiền hạch từ nhân dây X (phía
trên) hoặc từ các tế bào nằm ở sừng bên tủy sống ở S2 đến S4 (phía dƣới) theo
rễ trƣớc đến tiếp xúc với các sợi hậu hạch ở đám rối phó giao cảm nằm sát các
cơ quan mà nó chi phối [31].
Hình 1.1. Những đường dẫn truyền thần kinh chi phối tử cung [18]
8
1.1.2. Thay đổi về hệ tuần hoàn
Khi có thai, hệ thống tuần hoàn chịu sự thay đổi lớn nhằm đáp ứng
những đòi hỏi tăng thêm của ngƣời mẹ và thai nhi: thể tích máu tăng 35%
trong đó thể tích huyết tƣơng tăng nhiều hơn huyết cầu. Cung lƣợng tim tăng
40%. Nhịp tim tăng 15% và thể tích nhát bóp tăng 30%. Tuy nhiên, trong thai
nghén bình thƣờng thì huyết áp tâm thu và tâm trƣơng đều giảm 0 – 15% chứ
không có tình trạng tăng huyết áp nhƣ trong TSG [29].
Ở ba tháng cuối của thai kỳ có sự giảm cung lƣợng tim theo tƣ thế do tử
cung đè vào tĩnh mạch chủ dƣới làm giảm máu tĩnh mạch trở về tim. Trên lâm
sàng có 10% thai phụ có dấu hiệu choáng: hạ huyết áp, tái nhợt, vã mồ hôi,
nôn… khi nằm ngửa. Có thể đề phòng hội chứng này bằng cách cho thai phụ
nằm nghiêng trái hoặc kê gối dƣới mông bên phải để đẩy tử cung sang trái.
Hội chứng này càng dễ xuất hiện sau khi bệnh nhân đƣợc gây tê vùng, nhất là
sau gây tê tuỷ sống do sự phong bế thần kinh giao cảm, vì vậy phải cho bệnh
nhân nằm nghiêng trái 15 độ hoặc kê gối dƣới mông phải sau khi gây tê xong.
Tử cung to gây cản trở tuần hoàn tĩnh mạch trở về, do đó các mạch máu
trong khoang NMC cũng giãn to nên khi gây tê NMC trong sản khoa dễ bị
chọc kim gây tê hoặc luồn catheter vào mạch máu.
1.1.3. Thay đổi về hô hấp
Khi có thai, cơ hoành bị đẩy lên cao làm cho thể tích khí cặn chức năng và
thể tích dự trữ thở ra giảm 15% - 20% (ở cuối kỳ thai nghén), dung tích khí cặn
chức năng giảm vì vậy dự trữ oxy trong phổi của các thai phụ cũng giảm so với
bình thƣờng. Thông khí phút tăng khoảng 50% do tăng thể tích khí lƣu thông và
tăng tần số thở. Ngoài ra, thai phụ có tình trạng tăng nhu cầu oxy do phải cung cấp
oxy cho thai nên rất dễ bị thiếu oxy khi khởi mê trong gây mê toàn thân [29].
Cuối thời kỳ thai nghén, các mao mạch ở niêm mạc đƣờng hô hấp xung
huyết, tăng tiết dịch làm cho niêm mạc đƣờng hô hấp phù nề, dễ chảy máu khi đặt
NKQ, vì vậy phải sử dụng ống NKQ có đƣờng kính nhỏ hơn bình thƣờng [29].
9
1.1.4. Thay đổi về hệ tiêu hóa
Áp lực dạ dày tăng do tăng áp lực ổ bụng, trƣơng lực cơ thắt tâm vị
giảm, tƣ thế dạ dày nằm ngang làm mở góc tâm phình vị nên dễ bị nôn, trào
ngƣợc dịch dạ dày vào phổi. Thể tích và độ acid của dịch dạ dày tăng do tác
dụng của gastrin rau thai làm cho tổn thƣơng phổi nếu bị trào ngƣợc sẽ rất
nặng nề. Phòng nguy cơ nôn trào ngƣợc dịch dạ dày vào phổi trong gây mê
toàn thân là vấn đề hàng đầu của các nhà GMHS sản khoa. Do vậy gây tê
vùng ngày càng đƣợc lựa chọn nhiều hơn để phòng tránh nguy cơ này.
1.1.5. Thay đổi hệ thần kinh
Trong thai nghén bình thƣờng, hệ thống thần kinh thay đổi do tác
dụng của các chất progesterone và endorphine. Gintzler đã chứng minh ở
chuột có thai, ngƣỡng chịu đau tăng lên dần dần do tăng hoạt động của
endorphine [29].
Áp lực trong ổ bụng tăng làm cho các tĩnh mạch trong khoang NMC
căng lên, xung huyết, làm thể tích khoang NMC và khoang dƣới nhện bị giảm
xuống, các lỗ ra của các rễ thần kinh cũng hẹp lại vì có các tĩnh mạch đi kèm.
Vì vậy liều thuốc tê phải giảm từ 20 – 30% đối với gây tê NMC và giảm 30 –
50% đối với GTTS [29].
Ngoài ra, khi có thai các sợi thần kinh tăng cảm ứng hoặc tăng khuyếch
tán thuốc tê ở màng cảm thụ. Tác giả Fagraeus đã chứng minh ở ngƣời mới
có thai 8 - 12 tuần khả năng lan toả tác dụng của thuốc tê cũng tăng nhƣ
ngƣời có thai sắp đẻ. Datta đã so sánh hiệu quả của bupivacain trên sự dẫn
truyền của thần kinh phó giao cảm cô lập ở thỏ không có thai và thỏ có thai
thấy tác dụng phong bế xảy ra nhanh hơn rõ rệt trên thỏ có thai [29].
10
1.2. TIỀN SẢN GIẬT
1.2.1. Dịch tễ học
Trên thế giới, tỷ lệ mắc TSG thay đổi theo từng khu vực. Tại Cộng hòa
Pháp, theo nghiên cứu của Uzan năm 1995 là 5%. Tại vƣơng quốc Anh, theo
nghiên cứu của Kristine Y-lain năm 2002, tỷ lệ này là 5 - 8%, trong đó tiền
sản giật nặng là 0,5%. Tại Hoa Kỳ, theo số liệu của Sibai là 5 - 6% (1995).
Tại Việt Nam, tỷ lệ tiền sản giật là 3 - 5% [46], [48].
1.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Cơ chế bệnh sinh của TSG vẫn còn nhiều tranh cãi. Tuy nhiên hiện nay
các tác giả đều thừa nhận TSG là do rối loạn về rau thai gây tình trạng thiếu
máu của bánh rau và các triệu chứng lâm sàng là do rối loạn sự hoạt động của
các tế bào nội mạc của ngƣời mẹ.
Trong thai nghÐn b×nh th-êng, có hiện tƣợng x©m
lÊn cña tÕ bµo nu«i vào c¸c ®éng m¹ch xo¾n của tử cung
khi c¸c m¹ch m¸u nµy x©m nhËp dÇn vµo trong b¸nh
rau làm cho thµnh c¸c ®éng m¹ch xo¾n bÞ ho¹i tö dÇn
dÇn vµ ®-îc thay thÕ b»ng mét líp x¬ co gi·n. HiÖn
t-îng nµy lµm cho c¸c ®éng m¹ch xo¾n trë nªn mÒm
m¹i vµ réng h¬n (®-êng kÝnh cña đéng m¹ch xo¾n èc
cã thÓ t¨ng lªn 500 m thËm chÝ 1000 m) nhằm làm tăng
lƣu lƣợng máu cung cấp cho thai. Đặc biệt, các động mạch này không
nhạy cảm với các chất co mạch, ®iÒu ®ã càng lµm cho viÖc trao
®æi chất ë b¸nh rau dÔ dµng h¬n.
Trong TSG, cã sù rèi lo¹n qu¸ tr×nh x©m lÊn cña
tÕ bµo nu«i vµo c¸c ®éng m¹ch xo¾n cña tö cung (có
11
tới 30 - 50% các động mạch xoắn không đƣợc tế bào nuôi xâm nhập) do đó,
không tạo ra đƣợc một hệ thống mạch máu có sức cản thấp nhƣ trong thai
nghén bình thƣờng. Hậu quả là làm giảm tƣới máu rau thai, thiếu oxy rau
thai và có thể hình thành các ổ nhồi huyết ở trong bánh rau [154], [160].
Hình 1.2. Sơ đồ hình ảnh động mạch tử cung biến thành động mạch tử
cung - rau dưới sự tác động của quá trình xâm lấn các tế bào lá nuôi trong
thai nghén bình thường [160].
Ngoài ra, trong TSG còn có sù mÊt c©n b»ng gi÷a các chất co
mạch và các chất dãn mạch. Tû lÖ thromboxane A2 (chÊt lµm co
m¹ch, t¨ng kÕt dÝnh tiÓu cÇu) t¨ng trong khi
prostacycline (chÊt g©y gi·n m¹ch, øc chÕ kÕt dÝnh
tiÓu cÇu, lµm gi·n c¬ v©n, øc chÕ co bãp tö cung, lµm
gi¶m tÝnh nhËy c¶m cña thµnh m¹ch víi angiotensine
II) gi÷ nguyªn hoÆc gi¶m, chÝnh sù mÊt c©n b»ng nµy
lµm t¨ng søc c¶n ngo¹i biªn vµ dÉn ®Õn thiÕu m¸u cña
b¸nh rau. §iÒu trÞ chèng kÕt dÝnh tiÓu cÇu b»ng
aspirine liÒu thÊp, lµm gi¶m tØ lÖ thromboxane A2/
prostacycline, theo một số nghiên cứu có thể dự phòng đƣợc TSG [7],
[46].
1
2
3
4
1.§M tö cung
2.§M so¨n èc
3.C¬ tö cung
4.Líp xèp
12
Ngƣời ta còn thấy có hiện tƣợng các tế bào nội mạc mạch máu của ngƣời
mẹ thay đổi hình thái (phù, tích nƣớc) và thay đổi chức năng (mất tính trơn
nhẵn, rối loạn về sự co thắt của mạch máu). Các thay đổi của các tế bào
nội mạc mạch máu góp phần làm tăng đông máu trong TSG. Tỷ lệ
thrombine tăng, dẫn đến tăng hoạt hóa tiểu cầu và tạo ra huyết khối ở các
mạch máu tử cung - rau [160].
Theo Stout và Parks, cơ chế sinh lý bệnh của TSG còn có nhiều khả năng
liên quan đến sự rối loạn điều hòa các yếu tố rau thai nhƣ: yếu tố điều hòa quá
trình tạo mạch máu (regulators of angiogenesis), yếu tố tăng trƣởng, cytokine
và yếu tố điều hòa trƣơng lực mạch mà hậu quả cuối cùng là gây giảm tƣới
máu đối với nhiều cơ quan trong cơ thể nhƣ: hệ thống thần kinh trung ƣơng,
thận cũng nhƣ tổ hợp bánh rau và rau thai [1].
1.2.3. Các yếu tố nguy cơ
- Thời tiết: mùa rét, ẩm, tỷ lệ TSG cao hơn mùa nóng ấm [22].
- Tuổi thai phụ: tỷ lệ mắc cao hơn ở nhóm thai phụ dƣới 20 tuổi hoặc
trên 35 tuổi [1].
- Số lần có thai: đa số các nghiên cứu cho thấy con so tỷ lệ mắc cao hơn
con rạ [22].
- Số lƣợng thai: tỷ lệ mắc bệnh ở các thai phụ đa thai cao hơn một thai.
- Tiền sử nội khoa: các thai phụ bị các bệnh nhƣ: tiểu đƣờng, cao huyết
áp, béo phì, bệnh thận, bệnh mô liên kết và các rối loạn dễ gây huyết khối tắc
mạch thì cũng dễ mắc TSG hơn ngƣời bình thƣờng [1].
- Tiền sử sản khoa: tiền sử mắc TSG, sản giật, thai lƣu, rau bong non...
cũng là yếu tố làm tăng tỷ lệ phát sinh bệnh và làm TSG nặng thêm.
- Chế độ dinh dƣỡng: tỷ lệ mắc bệnh tăng lên khi chế độ ăn thiếu các
chất nhƣ canxi, vitamin, axit folic... và thừa đƣờng.
13
- Chế độ làm việc: lao động nặng, căng thẳng thần kinh làm tăng tỷ lệ
bệnh và gây nhiều biến chứng.
1.2.4. Các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm
1.2.4.1. Tăng huyết áp
Tăng huyết áp là triệu chứng quan trọng nhất, nó cũng là triệu chứng đến
sớm nhất, hay gặp nhất và có giá trị tiên lƣợng cho cả mẹ và con.
Huyết áp phải đƣợc đo ít nhất 2 lần, cách nhau 4 giờ khi thai phụ nghỉ ngơi.
Tăng huyết áp khi huyết áp tăng trên 140/90mmHg hay huyết áp tâm thu
tăng trên 30mmHg, hoặc huyết áp tâm trƣơng tăng trên 15mmHg, huyết áp
trung bình tăng trên 20mmHg so với mức HA nền [3], [8], [156].
1.2.4.2. Protein niệu
Khi lƣợng protein trong nƣớc tiểu lớn hơn 1 cộng (+) hoặc trên 300
mg/24 giờ. Protein niệu là triệu chứng quan trọng thứ hai để chẩn đoán TSG,
nó thƣờng xuất hiện muộn hơn tăng huyết áp [3], [8], [156].
1.2.4.3. Phù
Phù đƣợc xác định khi trọng lƣợng cơ thể tăng trên 500 g/tuần hay
hơn 2250 g/tháng. Đặc điểm của phù trong TSG là phù trắng, mềm, ấn lõm,
không mất đi khi nằm nghỉ. Phù có thể gặp ở 80% thai phụ bình thƣờng
nên nó không phải là tiêu chuẩn bắt buộc trong chẩn đoán TSG theo định
nghĩa mới. Tuy nhiên, nếu phù kết hợp với tăng huyết áp thì có thể làm
bệnh nặng lên [46], [48].
Các thai phụ bị TSG nhẹ thƣờng không có triệu chứng hoặc có thể than
phiền do tình trạng phù ngoại biên và tăng cân nhanh. Khám lâm sàng thấy
hiện tƣợng phù và đôi khi có thể phát hiện đƣợc tăng phản xạ gân xƣơng. Xét
nghiệm máu có tình trạng cô đặc máu.
1.2.4.4. Các triệu chứng khác
- Đau thƣợng vị, nôn hoặc buồn nôn.
- Đau đầu, tăng phản xạ gân xƣơng, rối loạn thị lực.
14
- Cơn sản giật.
- Thiểu niệu.
- Tràn dịch màng phổi, màng bụng.
- Nồng độ các chất ure, creatinine, axit uric, men gan trong máu tăng.
- Tan máu, tiểu cầu giảm.
Tiến triển tới TSG nặng đƣợc khẳng định khi có rối loạn chức năng của
một số cơ quan đích. Các cơ quan bị tác động bao gồm: suy thận, giảm tiểu
cầu, giảm fibrinogen máu, đau hạ sƣờn phải hoặc vùng thƣợng vị kèm theo
tăng men gan. Tác động tới hệ thống thần kinh trung ƣơng đƣợc biểu hiện
bằng các triệu chứng đau đầu vùng chẩm hoặc vùng trán, ám điểm hoặc nhìn
mờ, có thể có rối loạn ý thức. Các dấu hiệu thực thể này thƣờng phản ánh tình
trạng co thắt mạch máu não và thƣờng có trƣớc khi xuất hiện cơn sản giật.
Các tác động đến thai bao gồm thai chậm phát triển trong tử cung thứ
phát do rối loạn chức năng rau thai cũng nhƣ tăng nguy cơ rau bong non [1].
1.2.5. Phân loại
1.2.5.1. Theo sựrối loạn huyết áp của Davey
- Tăng huyết áp cùng proteine niệu trong thời kỳ thai nghén [48].
- Tăng huyết áp mãn tính (trƣớc khi có thai).
- Tăng huyết áp không xếp hạng đƣợc (không xác định đƣợc thời điểm
và mức độ tăng huyết áp).
1.2.5.2. Phân loại theo “Hướng dẫn quốc gia về các dị ch vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sản” năm 2009
* Tiền sản giật nhẹ [25]
Khi tuổi thai trên 20 tuần có các triệu chứng sau đây:
- Huyết áp tâm trƣơng 90 – 110 mmHg, đo 2 lần cách nhau 4 giờ.
- Proteine niệu có thể tới 2 cộng (++) tƣơng đƣơng với < 3 g/l.
Ngoài ra không có triệu chứng nào khác.
15
* Tiền sản giật nặng [25]
Tuổi thai trên 20 tuần có một trong các triệu chứng sau:
- Huyết áp tâm trƣơng > 110 mmHg.
- Protein niệu > 3 g/l.
Ngoài ra có thể có các dấu hiệu sau:
- Tăng phản xạ gân xƣơng.
- Đau đầu, chóng mặt.
- Nhìn mờ, hoa mắt.
- Thiểu niệu, nƣớc tiểu < 400 ml/24 giờ.
- Đau vùng thƣợng vị.
- Phù phổi.
* Sản giật
Sản giật đƣợc xác định là những cơn co giật toàn thể trên một thai phụ có
hội chứng TSG nặng.
1.2.5.3. Phân loại theo Hội Gây mê hồi sức và Sản phụkhoa Pháp 2007
* Tiền sản giật [156]
Tuổi thai trên 20 tuần có huyết áp cao trên 140/90 mmHg ở 2 lần đo và
protein niệu trên 1 cộng (+) hoặc trên 300 mg/24 giờ.
* Tiền sản giật nặng [156]
+ Khi huyết áp tăng rất cao: huyết áp tâm thu trên 160 mmHg, huyết áp
tâm trƣơng trên 110 mmHg hoặc
+ Khi huyết áp tăng trong khoảng 140/90 mmHg đến 160/110 mmHg
nhƣng kết hợp với một trong các triệu chứng sau đây:
- Đau thƣợng vị, nôn hoặc buồn nôn.
- Đau đầu, tăng phản xạ gân xƣơng, rối loạn thị lực.
- Protein niệu cao > 3,5 g/24 giờ hoặc trên 3 cộng (+++).