Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc điểm truyện ngắn thanh tịnh
PREMIUM
Số trang
113
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1950

Đặc điểm truyện ngắn thanh tịnh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

KSOR LUL

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số : 60.22.34

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng – Năm 2012

2

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ NGỌC HÒA

Phản biện 1: PGS. TS. Đoàn Lê Giang

Phản biện 2: TS. Nguyễn Thanh Sơn

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm

Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Khoa học Xã hội và

Nhân Văn họp tại Đại Học Đà Nẵng vào ngày 25 tháng

08năm 2012.

Có thể tìm Luận văn tại:

Trung tâm Thông tin-Học liệu, Đại học Đà Nẵng

Trường Đại học Sư Phạm, Đại học Đà Nẵng

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945 phát triển một cách

mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn. Những thành tựu đó đã

làm thay đổi hẳn diện mạo văn học của dân tộc, mang tới cho nó một

bộ mặt mới của nền văn học hiện đại. Cùng với sự phát triển nhanh

chóng của thơ ca (đặc biệt là phong trào Thơ mới) là sự phát triển

cũng mạnh mẽ không kém cả về số lượng lẫn chất lượng của các thể

loại văn xuôi nghệ thuật như: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tùy

bút, nghiên cứu phê bình

2. Trong sự phát triển bùng nổ của văn học, truyện ngắn đã

trưởng thành vượt bậc và sớm trở thành một thể loại mạnh với những

đại diện tiêu biểu như: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng,

Tô Hoài, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Kim Lân,… Mỗi tác giả là một

quan điểm, một phong cách riêng, nhưng đều có đóng góp thành

công vào thể loại này trong nền văn học chung. Vì thế chúng tôi

quyết định chọn đề tài luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh”

làm đề tài nghiên cứu với mong muốn phát hiện và khẳng định thêm

những đóng góp của ông cho truyện ngắn Việt Nam 1930-1945.

2. Lịch sử vấn đề

Dễ dàng nhận thấy, so với Thạch Lam và Hồ Dzếnh, số lượng

các bài nghiên cứu về Thanh Tịnh không nhiều. Chưa có công trình

nào nghiên cứu, khảo luận về Thanh Tịnh một cách riêng biệt, độc

lập. Từ trước tới nay mới chỉ có luận án Phó Tiến sỹ của Phạm Thị

Thu Hương (1995) là đặt vấn đề nghiên cứu những đặc trưng về

phong cách truyện ngắn của ba tác giả Thạch Lam- Thanh Tịnh- Hồ

Dzếnh và nghiên cứu về Thanh Tịnh nằm trong tương quan chung

4

với hai tác giả kia. Trong luận án của mình, Phạm Thị Thu Hương đã

tìm ra một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của Thanh Tịnh, đi sâu

vào phân tích không gian làng Mỹ Lý, đặt làng giữa không gian sóng

đối, coi các hình tượng dòng sông, con thuyền , câu hò, nhà ga, con

tàu, tiếng còi là các biểu trưng. Có thể nói đây là những phân tích sắc

sảo và sâu sắc. Bên cạnh đó luận án còn đề cập đến nghệ thuật truyện

ngắn của Thanh Tịnh như tìm hiểu chất thơ trong văn xuôi, giọng

điệu trần thuật xen trào phúng nhẹ nhàng. Mặc dù vậy, do yêu cầu

cũng như mục đích đặt ra của đề tài nên luận án dừng lại ở việc tìm

hiểu phong cách mà chưa đi sâu vào khai thác biện chứng của tâm

hồn.

Ngoài công trình của Phạm Thị Thu Hương, còn có các bài viết,

bài nghiên cứu về Thanh Tịnh của Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành

Khung, Huy Cận, Vương Trí Nhàn, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Mạnh

Trinh, Thạch Lam, Bùi Việt Thắng, Trần Hữu Tá, Lưu Khánh Thơ…

Hầu hết các bài đều viết theo thể loại chân dung tác giả, trong đó có

lược qua toàn bộ sự nghiệp của Thanh Tịnh bao gồm cả truyện ngắn,

truyện dài, thơ, độc tấu, kịch,… Nói chung, các ý kiến đánh giá về

truyện ngắn Thanh Tịnh trước 1945 là khá thống nhất, đều cho rằng

“mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh như một bài thơ vịnh gọn và có dư

vị trữ tình lắng sâu” (Trần Hữu Tá).

Trong bài viết của mình Vũ Ngọc Phan đã xếp Thanh Tịnh vào

cùng dòng “tiểu thuyết tình cảm” với Thạch Lam, ông cho rằng:

“Thứ tình cảm ở tiểu thuyết Thanh Tịnh là thứ tình êm dịu, nhẹ

nhàng, thứ tình của những người dân quê hồn hậu Trung kỳ, diễn ra

trong những khung cảnh sông nước, đồng ruộng… Cái tình quê trong

hầu hết các truyện ở tập Quê mẹ bao giờ cũng rung rinh, lai láng

trong những đêm trăng sáng, trên những mặt sông im hay trong

5

những buổi chiều tà, gió hiu hắt thổi. Tình, trăng, nước, đó là tất cả

những cái làm tài liệu cho Thanh Tịnh để xây dựng nên những truyện

trong tập Quê mẹ” [49. tr, 193].

Đi xa hơn Vũ Ngọc Phan, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã so

sánh sự gần gũi về chất trữ tình, chất thơ trong sáng tác của Thanh

Tịnh và một số nhà văn khác với nhà văn Nga Pauxtôpxki: “…kết

hợp giữa phản ánh và bộc lộ cảm xúc cá nhân đậm chất trữ tình, chất

thơ như sáng tác của Pauxtôpxki, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh

Tịnh, …” [16, tr.33], “Có thể nói mạch truyện Thạch Lam, Hồ

Dzếnh, Thanh Tịnh đã nói lên vẻ đẹp nội cảm của tâm hồn trước

cuộc sống…” [16, tr.37].

Nhà thơ Huy Cận phát hiện ra cái “mùi vị quê rất đậm” trong

truyện ngắn của Thanh Tịnh: “Tôi muốn nói thêm một điều: bao áng

văn đẹp ấy gợi đậm lòng yêu quê hương đất nước, yêu những gì là

văn minh, văn hóa nước nhà, lại có những tác phẩm mà “mùi vị đất

quê” rất đậm (như các truyện ngắn của Thanh Tịnh) thật là đáng trân

trọng…” [7, tr.1369].

Trong khi hầu hết các nhà nghiên cứu khác thường chỉ đặt Thanh

Tịnh trong mạch liên tưởng tới các tác giả, tác phẩm gần gũi cùng

giai đoạn thì Nguyễn Hoành Khung, trong một số bài tiểu luận của

mình đã dành nhiều sự chú ý tới Thanh Tịnh: “Và cả Thanh Tịnh, Hồ

Dzếnh, nếu như được gọi là những cây bút hiện thực - một thứ hiện

thực trữ tình - thì đâu phải là không có căn cứ” [30, tr.10], “Cây bút

xứ Huế ấy có một hồn thơ lai láng, ngọt ngào, man mác, trữ tình…”

[30, tr.40], “Đúng như có người nhận xét, mỗi truyện ngắn của Thanh

Tịnh là một bài thơ. Với một quê hương đằm thắm, Thanh Tịnh

không những dựng nên một bức tranh thiên nhiên thi vị mà còn đi

vào những cuộc đời hiền lành, lầm lụi mà đáng quý, đáng thương của

6

người dân quê, đặc biệt là người phụ nữ…” [30, tr.40], “Mỗi truyện

ngắn của Thanh Tịnh là một bài thơ, mang chất thơ của cảnh vật và

tâm hồn con người Việt Nam bình dị xiết bao thương mến. Song ngòi

bút rất thi sĩ ấy không chỉ khai thác những gì thi vị, ngọt ngào, mà

còn viết nên những trang nhức nhối, đầy ám ảnh về số phận thê thảm

của con người nghèo khổ trong cuộc sống vật lộn dữ dội với đời

sống” [32, tr.14].

Tương tự như Nguyễn Hoành Khung là những nhận định thuyết

phục của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Chỗ khác của Thanh

Tịnh so với một số tác giả thời tiền chiến, là khi diễn tả những nỗi bất

hạnh của con người không làm cho nó chói lên quá đáng, nhân vật

trong truyện cũng như tác giả không kêu to sau các trang sách, song

sự bất hạnh vì thế lại hiện ra không ai có thể cưỡng lại nổi, nó như

không khí bao quanh người ta, và sống lâu với nó, ta quen đi lúc nào

không biết” [53, tr.230].

Và tất cả những ý kiến trên đều là những gợi ý quý báu cho

chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn Thanh Tịnh

giai đoạn 1930 – 1945.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những đặc điểm của truyện

ngắn Thanh Tịnh trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn sử dụng các phương

7

pháp chủ yếu sau:

4.1. Phương pháp lịch sử

4.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống

4.3 Phương pháp so sánh

5. Đóng góp của luận văn

- Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần nhận diện

những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Thanh Tịnh giai đoạn 1930 -

1945 trên cả hai bình diện nội dung và hình thức.

- Luận văn cũng góp phần nhận diện đặc trưng thể loại truyện ngắn

từ góc nhìn phương pháp sáng tác.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được triển khai trong 3

chương:

Chương 1: Truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX và hành trình sáng

tạo văn chương của Thanh Tịnh.

Chương 2: Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh - Nhìn từ đề tài và

hình tượng nhân vật.

Chương 3: Đặc điểm của truyện ngắn Thanh Tịnh 1930 - Nhìn từ

phương thức thể hiện.

CHƯƠNG 1

TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ HÀNH

TRÌNH SÁNG TẠO VĂN CHƯƠNG CỦA THANH TỊNH

1.1. Truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX

Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam buổi giao thời luôn có sự đụng

8

chạm, cọ xát giữa phương Đông với phương Tây, giữa cổ truyền với

hiện đại, giữa cái cũ và cái mới, giữa cá nhân và cộng đồng, kích

thích những người cầm bút tìm tòi. Lý tưởng thẩm mỹ của thời đại đã

thay đổi. Quan niệm đề cao con người cá nhân của phương Tây như

làn gió mới, thổi bùng lên khát vọng giải phóng, khát vọng tự do.

Trên cơ sở nền tảng của văn xuôi tự sự trung đại, sự hình thành

và phát triển của văn xuôi quốc ngữ Nam bộ cuối thế kỷ XIX, truyện

ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phát triển theo những chặng đường

sau:

* Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1925. Đây là bước chuẩn bị, thăm

dò về khả năng hình thành của thể loại truyện ngắn hiện đại. Phần lớn

truyện ngắn chú ý nhiều đến vấn đề suy thoái của đạo đức truyền

thống, kết cấu chưa tách khỏi ảnh hưởng của truyện dân gian và văn

xuôi trung đại.

* Từ năm 1926 đến năm 1932. Đây là chặng đường vận động đa

dạng của truyện ngắn trên con đường hình thành của thể loại. Đặc

điểm lớn nhất của chặng đường này là sự phân hóa dù chưa rõ ràng

của truyện ngắn theo hai khuynh hướng: hiện thực và lãng mạn, ở

chặng đường thứ hai này thấy nổi bật lên vai trò của một số báo, tạp

chí như Nam phong tạp chí, An Nam tạp chí, Phụ nữ tản văn, Đông

Dương tạp chí…

1.1.1. Khái niệm và đặc trưng thể loại

Lịch sử văn học Việt Nam kể từ khi “ Vất bút lông đi, giắt bút

chì” (Tú Xương), gắn liền với chữ quốc ngữ, thì văn xuôi nghệ thuật,

trong đó có truyện ngắn đã bắt đầu hình thành và đóng vai trò quan

trọng. Để nhận biết rõ hơn, sự hình thành truyện ngắn với tư cách là

một thể loại trong văn học dân tộc - và để làm tiền đề nghiên cứu

9

truyện ngắn Thanh Tịnh ở các chương sau, chúng tôi đã tham khảo

vận dụng các ý kiến, quan niệm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam

và trên thế giới.

Ruby V. Redinger trong Bách khoa toàn thư Mỹ (Encyclopedya

American) xác định: “Truyện ngắn là một hình thức văn học, bản

chất của nó bao hàm trong những từ làm thành phần tạo nên tên gọi

của nó. Với tư cách là một câu chuyện, nó kể lại một chuỗi sự kiện

hoặc một biến cố liên quan đến con người trong hoạt động thể chất

hoặc tinh thân. Vì thế, giống mọi hình thức văn xuôi hư cấu khác, nó

mô tả bằng ngôn từ; và thành công của nó phụ thuộc vào sự tiếp xúc

trực tiếp đặt được giữa người đọc và đối tượng miêu tả. Với tư cách

là truyện ngắn, dĩ nhiên, nó không thể thực hiện mối tiếp xúc trực

tiếp này bởi các phương tiện phổ biến đối với tiểu thuyết, như là xây

dựng nhân vật chậm rãi, miêu tả thật chi tiết và lặp lại. Đặc biệt là nó

phải miêu tả với độ nhanh nhạy và trọn vẹn giống như một tấm

gương” (dẫn theo Lê Huy Bắc) [5, tr.19].

Theo Bùi Việt Thắng “Truyện ngắn rất ngắn trước hết là một

truyện ngắn theo ý nghĩa thông thường, nói chung-có nghĩa là nó

không phải là một truyện dài, đương nhiên. Nhưng rất ngắn đến mức

độ nào kể cũng khó trói buộc nó một cách dứt khoát, tuyệt đối (độ dài

của một truyện ngắn rất ngắn thường từ dăm chục chữ đến dăm trăm

chữ). Nếu dùng hình ảnh thì truyện ngắn rất ngắn là một “đặc sản”

của truyện ngắn thông thường; mà đã là “đặc sản” thì thường hiếm và

có khi là đắt. Nhưng nó hội đủ những đặc điểm của truyện ngắn với

tư cách là một thể loại văn học có lịch sử lâu đời, có vị trí cũng như

công năng lớn trong hệ thống các thể loại văn học nói chung, văn

xuôi nói riêng”.

10

1.1.2. Quá trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam đầu thế

kỷ XX

Như chúng ta đã biết, loại hình tự sự trong văn học dân gian như

truyện cổ tích, thần thoại và truyện cười là nguồn gốc nuôi dưỡng và

hổ trợ những kinh nghiệm nghệ thuật cho việc sáng tác truyện ngắn

buổi ban đầu. Truyện ngắn rút được những kinh nghiệm quí báu của

truyện cổ tích trong sự khái quát cao, các biện pháp ước lệ tượng

trưng của thần thoại và ngắn gọn bất ngờ của tiếu lâm.

Với quan niệm “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí” mười thế kỷ

trung đại loại hình tự sự ít được nhà nước phong kiến quan tâm, phổ

biến - nhưng, như quy luật vận động của đời sống, nó vẫn phát triển

“tự nhiên nhi nhiên”. Chính văn học dân gian và loại hình tự sự trung

đại đã “âm thầm” nuôi dưỡng mầm mống truyện ngắn sau này. Cuối

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ thoat ra khỏi bốn bức

tường của tu viện và hòa nhập vào đời sống. Thì truyện ngắn quốc

ngữ đã bắt đầu hình thành.

Từ năm 1929-1932, trên chuyên mục “xã hội ba đào ký” của An

Nam tạp chí, Nguyễn Công Hoan đã trình làng trên dưới 20 truyện

ngắn, khẳng định phong cách trào phúng của mình như “Oẳn tà

roằn”, “Thật là phúc”, “Răng con chó của nhà tư sản”… Với Nguyễn

Công Hoan, mỗi truyện ngắn chỉ khai thác một tình huống, một mâu

thuẫn. Ông biết cách đẩy mâu thuẫn lên thật cao rồi kết thúc đột ngột.

Với Nguyễn Công Hoan, có thể nói truyện ngắn hiện đại và ngôn ngữ

nghệ thuật hiện đại đã hình thành.

Điểm qua một vài gương mặt “vàng” của truyện ngắn Việt Nam

1930-1945, chúng tôi nhận thấy, bằng những nổ lực của mình, bằng

công việc miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa, đội ngũ những tên tuổi

11

này đã đi rất xa - cái đích chung mà nhiều thế hệ người viết đến sau,

trong suốt thế kỷ 20 vẫn chưa vượt được .

1.2. Thanh Tịnh và hành trình sáng tạo văn chương

1.2.1. Thanh Tịnh - cuộc đời và duyên nợ văn chương

Trong cuộc đời sáng tác của mình, Thanh Tịnh luôn ao ước

“Ước gì để lại mùa sau. Một câu một chữ đượm màu dân gian”. Phải

chăng những mong muốn hòa nhập vào cuộc sống của “người trồng

dâu, trồng gai” và những hoài niệm tuổi thơ ở làng Mỹ Lý xa ngái ở

miền Trung, khiến văn chương của Thanh Tịnh bao giờ cũng man

mác, trữ tình và sâu lắng ? cái man mác, trữ tình của điệu hò mái nhì,

mái đẩy văng vẵng trên sông đã theo ông suốt cả cuộc đời và khiên

ông tạo nên một phong cách riêng, không thể lẫn lộn trong dòng chảy

của truyện ngắn Việt Nam 1930-1945.

Thanh Tịnh không thành công trong lĩnh vực sáng tác truyện

dài, nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Tập thơ

“Hậu chiến trường” (1937) mang phong cách lãng mạn đậm nét. Thơ

ông thường mượt mà, tinh tế nhưng man mác buồn và bâng khuâng,

thơ mộng của con người sinh bên cạnh một dòng sông “Huế ơi, quê

mẹ của ta ơi” (Tố Hữu). Thành công hơn cả là các tập truyện ngắn

“Quê mẹ” (1941), “Chj và em” (1942), “Ngậm ngải tìm trầm”

(1943).

Nhìn chung, tác phẩm của Thanh Tịnh đậm chất trữ tình.

Thông qua tâm hồn tác giả, hiện thực cuộc sống được phản ánh giản

dị mà sâu sắc, không phải chỉ ở bề ngoài, mà ở các linh hồn sâu lắng

bên trong. Văn Thanh Tịnh luôn mượt mà, sâu lắng và gợi cảm

“truyện ngắn nào hay đều có chất thơ, và bài thơ nào hay đều có cốt

truyện” (Thạch Lam).

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!