Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam – Thực trạng và giải pháp.doc
MIỄN PHÍ
Số trang
69
Kích thước
394.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1597

Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam – Thực trạng và giải pháp.doc

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Để có thể tạo ra được những tài sản vật chất cụ thể cho nền kinh tế

quốc gia, nhất thiết phải cần tới việc sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động

đầu tư. Vốn đó có thể xuất phát từ nội lực nền kinh tế trong nước, cũng có

thể thu hút từ nước ngoài và đi vào phục vụ nền kinh tế chủ yếu thông qua

các dự án đầu tư.

Một dự án đầu tư có thể được xác định theo nhiều cách. Các dự án có

thể do các Bộ, Ngành hữu quan đề xuất, chúng có thể bắt nguồn từ quá trình

xây dựng các kế hoạch kinh tế quốc gia, hoặc cũng có thể được đề xướng bởi

các động lực chính trị. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và

nước ngoài khi đầu tư cũng đòi hỏi chính phủ phải trợ giúp hoặc phê chuẩn

trước khi thực hiện.

Trong bất kể một dự án đầu tư nào, bao giờ cũng có sự mâu thuẫn

tiềm ẩn về lợi ích giữa những người đề xuất dự án hay chương trình và

toàn xã hội. Sự mâu thuẫn này không phải là một chuyện gì mới lạ: lợi

ích của các dự án thường được tập trung cho một bộ phận tương đối hạn

hẹp (thường là các chủ đầu tư) trong khi những chi phí về môi trường,

chi phí cơ hội cho nguồn lực thì lại phân bổ cho toàn bộ xã hội. Do vậy

mà không một cá nhân nào thấy mình phải chịu gánh nặng chi phí mà các

dự án đem lại. Kết quả có thể đoán trước được là những người được

hưởng lợi từ dự án có xu hướng tận dụng triệt để các ưu đãi về nguồn lực

và cố gắng giảm tối thiểu các chi phí bằng cách chuyển các gánh nặng

chi phí. Trong khi đó nhóm người có khả năng bị thiệt hại (là những

người phải gánh chịu chi phí ) lại quá phân tán và những mất mát của

từng cá nhân trong số họ lại quá nhỏ, bởi vậy họ không thể trở thành một

SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

1

đối trọng hiệu quả chống lại nhóm hưởng lợi có tính tập trung cao. Theo

cách này, cán cân chính trị thường nghiêng về phía chấp thuận các dự án,

ngay cả các dự án có thể gây thiệt hại cho sự phát triển chung của cả

quốc gia. Để ngăn chặn điều này xảy ra cần phải có sự can thiệp của

chính phủ thông qua các quy định về đầu tư, ban hành các tiêu chuẩn

định mức, và chỉ cấp phép cho các dự án đầu tư đủ tiêu chuẩn. Muốn làm

được như vậy cần thông qua công tác thẩm định, giám sát đầu tư để làm

căn cứ quyết định.

Trên thực tế, công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn

khá sơ sài, các khía cạnh nghiên cứu, đánh giá phần lớn chỉ mang tính phân

tích định tính, thiếu tính định lượng nên mang tính phiến diện trong đánh giá.

Thêm vào đó, cơ sở lý luận về vấn đề này lại rất thiếu thốn bởi những vấn đề

lý luận chỉ dừng lại ở việc đưa ra các khái niệm, vấn đề liên quan đến tính

hiệu quả xã hội của dự án chứ chưa phân tích sâu hơn trong khía cạnh thẩm

định…Điều này đặt ra một vấn đề bức thiết đó là phải nâng cao chất lượng

công tác thẩm định các dự án đầu tư. Cũng bởi vậy mà tôi đã chọn đề tài:

“Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam –

Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu và làm chuyên đề thực tập tốt

nghiệp.

2. Mục tiêu nghiên cứu

a. Mục tiêu tổng quát:

- Tổng hợp cơ sở lý luận cho việc thành lập 1 khung thẩm định hoàn

thiện cho công tác thẩm định các dự án đầu tư. Đồng thời tạo cơ sở quản trị

rủi do cho các dự án đầu tư.

- Đánh giá thực trạng công tác thẩm định trong thời gian qua, các mặt

được cũng như hạn chế, làm cơ sở đề ra các giải pháp hoàn thiện hơn nữa

công tác thẩm định dư án.

SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

2

b. Mục tiêu cụ thể:

- Hệ thống hoá và bổ sung các vấn đề lý luận liên quan đến công tác

thẩm định kinh tế dự án đầu tư nước ngoài.

- Phân tích thực trạng và đánh giá những kết quả đạt được của công tác

thẩm định dự án đầu tư FDI.

- Dựa trên những đánh giá, phân tích thực trạng để làm cơ sở đề ra các

giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước với công tác

Thẩm định dự án đầu tư nước ngoài. Tức là đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu công

tác thẩm định tính kinh tế đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Phạm vi về không gian nghiên cứu của đề tài là các dự án đầu tư nước

ngoài đầu tư tại Việt Nam, với phạm vi thời gian từ năm 1988 ( năm bắt đầu

thực hiện luật đầu tư nước ngoài) đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài chủ yếu sừ dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp

phân tích định tính (gồm các chỉ tiêu định tính, thể hiện các chủng loại hiệu

quả đạt được: hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả xã hội, hiệu quả

quốc gia và cộng đồng); phương pháp phân tích định lượng (gồm các chỉ tiêu

định lượng, thể hiện quan hệ giữa chi phí và kết quả đạt được của dự án) và

phương pháp phân tích dòng tiền, phân tích chi phí – lợi ích.

5. Kết cấu đề tài

Từ vai trò của các dự án đầu tư, từ đó là vai trò của công tác thẩm

định, giám sát đầu tư đối với nền kinh tế Việt Nam, cùng với yêu cầu cấp

thiết đặt ra cho hoàn thiện hệ thống thẩm định trong tình hình hiện nay, tôi

chọn đề tài “Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

3

Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu làm chuyên đề thực

tập tốt nghiệp. Tôi mong muốn đề tài có thể đóng góp một chút công sức vào

việc nghiên cứu, hệ thống vấn đề, đề xuất các giải pháp và cải thiện được

công tác thẩm định dự án về dự án đầu tư ở Việt Nam.

Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, kết cấu của đề tài bao gồm ba chương:

Chương 1: Lý luận chung về công tác thẩm định dự án đầu tư

trực tiếp nước ngoài.

Chuơng 2 : Thực trạng công tác thẩm định các dự án đầu tư FDI

vào Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư nước

ngoài.

SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

4

Chương I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

I. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.

1. Khái niệm và đặc điểm dự án đầu tư

1.1. Khái niệm dự án đầu tư :

Từ khi thuật ngữ dự án ra đời, người ta thường dùng nó để chỉ những

hoạt động, những quá trình rất khác nhau trong từng lĩnh vực cụ thể. Chúng

ta đã được biết đến các dự án như dự án “đường dây cao thế 500kw xuyên

Bắc Nam”, dự án “Xây dựng đường cao tốc Thăng Long-Nội Bài”, dự án

đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, dự án cải cách hệ thống hành chính, dự

án cải tạo và nâng cấp môi trường đô thị, dự án tăng cường tiềm lực và phát

triển công nghệ quốc phòng tới năm 2010…Các dự án được tiến hành trong

các lĩnh vực rất khác nhau, với các nội dung và các hoạt động cụ thể cũng rất

khác nhau, nhưng chúng đều được gọi là dự án. Mỗi một dự án đều được xác

định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc, cũng như thoả mãn các yêu cầu cụ thể

của nền kinh tế hoặc của một tổ chức nhất định.

Từ trước tới nay có rất nhiều các nhà khoa học kinh tế cũng như các nhà

quản lý đã đưa ra khái niệm rất khác nhau về dự án. Mỗi một quan niệm

nhấn mạnh về một số các khía cạnh của một dự án cùng các đặc điểm quan

trọng của nó trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Nếu xét về hình thức, dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách

chi tiết và có hệ thống một dự kiến đầu tư trong tương lai.

Nếu xét về góc độ nội dung, dự án được hiểu là một ý đồ tiến hành một

công việc cụ thể nào đó nhằm đạt mục tiêu xác định trong khuôn khổ nguồn

SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

5

lực nhất định và khoảng thời gian nhất định.

Nếu xét ở góc độ kế hoạch, dự án được hiểu là một chi tiết đầu tư về phát

triển, là đơn vị kế hoạch độc lập nhỏ nhất trong hệ thống kế hoạch hoá, làm

cơ sở cho việc ra quyết định về đầu tư phát triển.

Nếu từ giác độ quan sát các hoạt động cần thiết cho một dự án thì dự án

được hiểu là hàng loạt các hoạt động cần thiết nhằm xác định mục tiêu, tiến

hành các nghiên cứu khả thi, dự đoán chi phí, hoàn thiện các thủ tục và thiết

kế cuối cùng, cũng như việc lắp đặt và hoàn thiện các điều kiện làm việc.

Một dự án nhất định sẽ bị giới hạn về thời gian, con người cùng các nguồn

lực khác để hoàn thành mục tiêu đã được xác định.

Như vậy, một dự án có thể được xem xét như là một chuỗi các công việc

và các nhiệm vụ:

Có mục tiêu cụ thể được hoàn thành trong những điều kiện nhất định

Được xác định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc.

Có giới hạn nhất định về tài chính

Sử dụng các nguồn lực nhất định về phương tiện, thiết bị, con người…

Từ các định nghĩa khái quát về dự án như trên, đến nay dự án đã được

dùng rất rộng rãi và phổ biến cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vỡi

mỗi lĩnh vực, dự án sẽ được cụ thể hoá một cách chi tiết hơn cho phù hợp

với đặc điểm riêng có của lĩnh vực đó. Tuy nhiên, những tính chất chung vốn

có của dự án thì vẫn tồn tại và được thể hiện rõ nét ở tất cả các lĩnh vực.

1.2. Dự án đầu tư có các đặc điểm sau:

• Dự án có tính thống nhất: dự án là một thực thể độc lập trong một môi

trường xác định với các giới hạn nhất định về quyền hạn và trách

nhiệm.

SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

6

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!