Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI tại Việt nam Thực trạng và giải pháp.docx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Bắt đầu từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời vào cuối năm 1987, tính đến hết
năm 2007, nước ta đã thu hút gần 100 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
nhằm bổ sung vốn cho phát triển kinh tế, tạo đà cho sự tăng trưởng. Đặc biệt, từ năm
2003 đến nay, lượng vốn FDI vào nước ta liên tục tăng, với tốc độ năm sau bằng
khoảng 1,5 lần năm trước và đến năm 2007 đã đạt mốc kỷ lục 20,3 tỷ USD. Để đạt
được tốc độ cao như vậy chúng ta có thể kể đến rất nhiều nguyên nhân như tình hình
chính trị - an ninh tiếp tục được duy trì ổn định, hệ thống chính sách đầu tư được cải
cách, cơ sở hạ tầng đã nâng cấp và phát triển hơn… Tựu chung lại, tất cả các yếu tố
đó đều phản ánh môi trường đầu tư của nước ta đã được cải thiện ngày càng tốt hơn
và sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đến môi trường đầu tư tại Việt nam ngày
càng lớn.
Tuy nhiên, cũng trong quá trình này, bên cạnh các dự án được tiến hành thành
công, tạo tâm lý an tâm, tin tưởng nơi nhà đầu tư khiến họ mở rộng, tăng quy mô của
dự án, cam kết làm ăn lâu dài tại Việt nam thì cũng có nhiều dự án khi thực hiện đã
gặp phải thất bại, bị thu hồi giấy phép đầu tư hay giải thể trước thời hạn do các
nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan khác nhau trong đó nguyên nhân chính
vẫn là do công tác chuẩn bị đầu tư bao gồm sự chuẩn bị của bản thân nhà đầu tư và
sự hỗ trợ từ phía Việt nam chưa được thực hiện tốt gây ảnh hưởng xấu tới môi trường
đầu tư cũng như lãng phí thời gian, công sức của nhà đầu tư cũng như các nguồn lực
của đất nước . Từ đó, vấn đề hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư nhằm tăng hiệu quả
thực hiện của dự án, cải thiện môi trường đầu tư tại Việt nam được đặt ra cấp thiết.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI tại Việt nam:
Thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn đã hệ thống
hóa những vấn đề cơ bản về dự án FDI và chuẩn bị đầu tư của dự án FDI, phân tích
thực tế công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI về phía nhà đầu tư và sự hỗ trợ về
phía Việt nam để từ đó đưa ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng
- Kinh tế đầu tư 46B -
1
như một số kiến nghị với nhà đầu tư trong công tác chuẩn bị đầu tư dự án. Ngoài
phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về dự án FDI và chuẩn bị đầu tư
của dự án FDI
Chương II: Thực trạng công tác chuẩn bị đầu tư của các dự án FDI tại
Việt nam (1988 -2007)
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư
đối với các dự án FDI tại Việt nam
Do lượng kiến thức hạn chế nên luận văn này không thể tránh khỏi sai sót, rất
mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô để bản luận văn thêm hoàn
thiện.. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo – Thạc sỹ Nguyễn Thu Hà và các
cán bộ nhân viên tại Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư trong thời gian
qua đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo để luận văn được hoàn thành.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN
FDI VÀ CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ CỦA DỰ ÁN FDI
2
Luận văn tốt nghiệp
I. Lí luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và dự án FDI
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài:
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Trong xu hướng toàn cầu hóa, nhất thể hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, hoạt
động thương mại quốc tế ngày càng phát triển sâu, rộng. Nếu như trước đây, hoạt
động thương mại quốc tế chỉ bao gồm xuất khẩu hàng hóa thì hiện nay hoạt động này
đã được mở rộng sang cả hoạt động, bảo hiểm, tài chính…Trong đó, đầu tư nước
ngoài là sự di chuyển các nguồn lực từ nước này sang nước khác để tiến hành hoạt
động đầu tư nhằm tìm kiếm lợi ích hữu hình hay vô hình. Về bản chất, đây là hình
thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa, cùng hỗ trợ và
bổ sung cho nhau trong quá trình chiếm lĩnh thị trường của các tập đoàn, công ty đa
quốc gia hay xuyên quốc gia hiện nay.
Theo định nghĩa và phân loại trong “Tài liệu hướng dẫn về Cán cân Thanh
toán” của quỹ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), đầu tư nước
ngoài của tư nhân được chia làm 3 loại: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và
phương thức đầu tư khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment,
FDI) là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư
trực tiếp (direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài
một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp (direct investment enterprise) trong một quốc
gia khác. Quyền sở hữu này phải tối thiểu là 10% tổng số cổ phiếu mới được công
nhận là FDI. Cũng theo hướng trên, cách định nghĩa của OECD lại đưa ra một
mức chuẩn về tỉ lệ góp vốn: “một doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một doanh nghiệp liên doanh hoặc không liên doanh trong đó nhà đầu tư
trực tiếp sở hữu tối thiểu là 10% cổ phần phổ thông hoặc 15% quyền biểu quyết.”.
Điểm mấu chốt trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là quyền kiểm
soát hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi quốc gia đều sử dụng
ngưỡng 10% để xây dựng định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi vậy các số
liệu thống kê lượng vốn FDI của các tổ chức khác nhau có thể không giống nhau.
- Kinh tế đầu tư 46B -
3
Theo Luật đầu tư 2005 của Việt nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào Việt nam vốn bằng tiền và tài sản hợp pháp khác để tiến
hành hoạt động đầu tư.
Như vậy, xét một cách chung nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức
đầu tư quốc tế trong đó nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp bỏ vốn và tham gia tổ chức
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh dự án FDI tại một quốc gia khác với quốc
gia sở tại của nhà đầu tư. FDI sẽ tạo thành một mối quan hệ lâu dài giữa một công ty
chủ quản ( người đầu tư trực tiếp) và một công ty phụ thuộc ( doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp) đặt tại một quốc gia khác với quốc gia của công ty chủ quản. Công ty chủ
quản không nhất thiết phải kiểm soát toàn bộ hoạt động của công ty phụ thuộc (trong
trường hợp công ty chủ quản không chiếm đa số cổ phiếu của công ty phụ thuộc) và
phần FDI chỉ tính trong phạm vi tỉ lệ sở hữu của công ty phụ thuộc.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Có 2 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài phổ biến:
- Đầu tư mới – Greenfield Investment (thành lập mới doanh nghiệp liên doanh
hoặc 100% vốn nước ngoài)
- Mua lại và sáp nhập –Merger & Acquisition (mua lại và sáp nhập một
doanh nghiệp hiện có hoặc mua cổ phiếu của các công ty cổ phần hoặc đã được cổ
phần hoá)
Ở nhiều quốc gia, hình thức mua lại và sáp nhập là một hình thức quan trọng
của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, hình thức này chưa phổ biến ở Việt Nam
do những quy định hạn chế cổ phần nước ngoài trong doanh nghiệp nội địa. Cùng với
những chính sách cải cách đầu tư đang trong giai đoạn bắt đầu được thực thi, mua lại
và sáp nhập có thể trở thành hình thức quan trọng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam những năm tới.
4
Luận văn tốt nghiệp
2. Dự án FDI:
2.1. Khái niệm dự án FDI:
Để có thể tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các tổ chức kinh tế
hay cá nhân nước ngoài cần phải tìm hiểu về các yếu tố của nước mà mình dự định
bỏ vốn: môi trường đầu tư, thị trường… để có quyết định đầu tư. Muốn vậy, họ phải
có chương trình, kế hoạch cụ thể cho hoạt động của mình trong một thời gian nhất
định. Điều này được thể hiện thông qua việc các nhà đầu tư nước ngoài soạn thảo dự
án đầu tư và tiến hành theo các thủ tục pháp lý nhất định của nước nhận đầu tư để
được cấp giấy chứng nhận đầu tư hay các nhà đầu tư nước ngoài phải tiến hành đầu
tư thông qua các dự án, gọi là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (dự án FDI). Có
nhiều cách định nghĩa khác nhau về dự án FDI tùy theo góc độ tiếp cận.
Nếu xét về mặt hình thức, dự án FDI là một tập hồ sơ, tài liệu do nhà đầu tư
nước ngoài trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các kế hoạch hoạt động của nhà
đầu tư nước ngoài tại nước nhận đầu tư trong tương lai nhằm đạt được một mục tiêu
nhất định.
Nếu xét về mặt nội dung, dự án FDI bao gồm toàn bộ các hoạt động có liên
quan tới nhau, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ về thời gian, địa điểm tiến
hành thông qua việc sử dụng các nguồn lực hiện có để tạo ra các kết quả nhất định
trong tương lai đi kèm với thực hiện được các mục tiêu đã định của dự án.
Như vậy, một cách chung nhất, có thể hiểu dự án FDI là dự án đầu tư do các
tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài tự mình hoặc cùng các tổ chức kinh tế hay
cá nhân ở nước tiếp nhận đầu tư bỏ vốn đầu tư và trực tiếp quản lý, điều hành để thu
lợi nhuận trong kinh doanh.
2.2. Vai trò của dự án FDI:
Các dự án FDI được tiến hành tại nước nhận đầu tư tạo ra các tác động to lớn
đối với cả nhà đầu tư nước ngoài lẫn nước tiếp nhận đầu tư
- Kinh tế đầu tư 46B -
5
2.2.1. Với nhà đầu tư nước ngoài:
Xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các tập đoàn kinh tế trên thế giới đòi
hỏi họ phải luôn tìm cách đổi mới công nghệ và mục tiêu quan trọng nhất đối với họ
là giảm tối đa giá thành cũng như mở rộng thị trường sản phẩm. Thực hiện dự án FDI
tại nước có thị trường rộng lớn, nguồn nguyên liệu đầu vào dồi dào, chi phí rẻ là
phương tiện hữu hiệu đối với họ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời, thông
qua thực hiện dự án FDI, nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội để mở rộng thị trường sản
phẩm của mình, được hưởng các ưu đãi của nước nhận đầu tư về thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu… của nước nhận đầu tư nhằm làm giảm giá thành
sản xuất, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, từ đó làm tăng lợi nhuận.
Bên cạnh đó, thực hiện dự án FDI tại nước tiếp nhận đầu tư cũng giúp cho nhà
đầu tư nước ngoài tránh hàng rào thuế quan khi xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang
nước nhận đầu tư, đồng thời tiết kiệm chi phí vận chuyển sản phẩm tới thị trường
tiêu thụ. Ngoài ra, thông qua chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI họ có thể kéo
dài chu kì sống của các công nghệ đã cũ đối với họ nhưng với nước nhận đầu tư, đó
vẫn là công nghệ mới, tạo ra năng suất lao động cao hơn.
Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm tới
việc đưa ra một dự án khả thi, đây là căn cứ để họ quyết định bỏ vốn đầu tư cũng như
là cơ sở để họ trình lên cơ quan có thẩm quyền tại nước tiếp nhận đầu tư để xin cấp
giấy chứng nhận đầu tư, được hưởng các ưu đãi, được cấp đất, cấp phép xây dựng
trong giai đoạn thực hiện dự án…Ngoài ra, đây cũng là căn cứ để họ thuyết phục các
tổ chức tín dụng tài trợ vốn cho dự án của mình thông qua chứng minh tính khả thi
của dự án về mặt tài chính.
2.2.2. Với nước nhận đầu tư:
Thông qua tiếp nhận các dự án FDI, các nước tiếp nhận đầu tư có thể gia tăng
tổng sản phẩm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra điều kiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại, đồng thời nâng cao trình độ công nghệ, tạo việc làm…
Bên cạnh đó, việc thực hiện các dự án FDI cũng tạo ra tác động tràn đối với các khu
6
Luận văn tốt nghiệp
vực kinh tế trong nước. Thông qua liên doanh, liên kết, hợp tác trong cung cấp đầu
vào cho các dự án FDI, các doanh nghiệp trong nước có thể học hỏi được kinh
nghiệm quản lý, mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của mình, các tổ chức tín
dụng trong nước: ngân hàng, bảo hiểm…cũng có thể tham gia tài trợ vốn hay cung
cấp dịch vụ của mình cho dự án FDI. Thực tế hiện nay cho thấy, các nước đang phát
triển đang cạnh tranh với nhau trong thu hút nguồn vốn FDI vào nước mình thông
qua những chính sách ưu đãi, xúc tiến đầu tư từ chính phủ các nước này, điều đó
khẳng định vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI nói chung cũng như việc thực hiện
các dự án FDI nói riêng trong nền kinh tế của mỗi nước.
Để có thể tiến hành đầu tư vào nước sở tại, nhà đầu tư nước ngoài phải qua
bước nghiên cứu tìm hiểu cơ hội đầu tư: nghiên cứu thị trường, chính sách pháp
luật…để từ đó lập ra báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi
trình lên cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư để xin giấy chứng nhận đầu
tư. Đây cũng là căn cứ để nước nhận đầu tư xem xét tính khả thi của dự án. Nếu một
dự án đầu tư gây ô nhiễm môi trường nhưng lại chọn vị trí đặt ở khu đông dân cư thì
cũng không được chính quyền nước tiếp nhận đầu tư chấp nhận hay một dự án có thể
thực hiện được tại thời điểm hiện tại nhưng chính quyền nước nhận đầu tư xét thấy
ảnh hưởng nếu thực hiện dự án trong tương lai thì có thể họ cũng từ chối cấp giấy
chứng nhận đầu tư.
2.3. Đặc trưng của dự án FDI:
Với đặc thù là có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài nên dù có những
điểm giống so với các dự án trong nước ở tính mục tiêu của dự án, việc huy động và
sử dụng các nguồn lực ở hiện tại, tiến hành theo một chu trình cụ thể từ chuẩn bị đầu
tư đến thực hiện dự án và kết thúc dự án, các dự án FDI cũng có những đặc trưng
riêng, chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp hơn:
Một là, sự tham gia và trực tiếp quản lý và điều hành của nhà đầu tư nước
ngoài. Tùy theo hình thức đầu tư mà mức độ tham gia từ phía nhà đầu tư nước ngoài
cũng khác nhau. Đối với hình thức dự án 100% vốn nước ngoài, chủ đầu tư nước
- Kinh tế đầu tư 46B -
7
ngoài sẽ trực tiếp điều hành, quản lý đối với vốn đầu tư của mình. Trong hình thức
liên doanh, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài tùy thuộc vào mức đô góp vốn của
hai bên. Do có sự tham gia quản lý, điều hành của nhà đầu tư nước ngoài với quan
điểm về quản lý, điều hành cũng như ngôn ngữ, phong tục tập quán khác nhau nên sự
thống nhất giữa các bên trong quản lý (đặc biệt trong hình thức liên doanh) là rất khó
khăn. Bên cạnh đó, với sự tham gia của yếu tố nước ngoài, bên cạnh động cơ lợi
nhuận cũng cần chú ý đến các động cơ chính trị xã hội có thể bị che đậy bởi các hoạt
động kinh tế đòi hỏi các cơ quan quản lý cấp giấy chứng nhận đầu tư phải xem xét
tới động cơ của nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, cũng do có yếu tố nước ngoài nên
việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư gặp nhiều khó khăn hơn do thiếu thông tin
về năng lực tài chính, quản lý của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với nhà đầu tư
nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam.
Hai là, dự án FDI chịu sự chi phối đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật
khác nhau của cả nước đi đầu tư cũng như nước nhận đầu tư cũng như các thông lệ
quốc tế, mối quan hệ về hợp tác về kinh tế giữa các quốc gia. Do đó, để tiến hành các
hoạt động đầu tư tại nước nhận đầu tư đòi hỏi nhà đầu tư nước ngoài phải tìm hiểu và
thích nghi với hệ thống pháp luật tại nước sở tại trong quá trình thực hiện dự án của
mình. Ở đa phần các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu thu hút FDI, để bảo vệ
các ngành sản xuất trong nước nên vẫn có những phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài về thủ tục pháp lý cũng như giá cả dịch vụ…
đòi hỏi nhà đầu tư nước ngoài cần tìm hiểu kĩ về các quy định đối với mình khi tiến
hành chuẩn bị đầu tư.
Ba là, dự án FDI được tiến hành gắn liền với hoạt động chuyển giao công
nghệ. Bên cạnh một lượng vốn lớn được đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài khi tiến
hành đầu tư cũng đưa vào nước nhận đầu tư các công nghệ hiện đại so với nước nhận
đầu tư, kinh nghiệm quản lý tiên tiến… mà nước nhận đầu tư có thể học hỏi, tạo ra
“tác động tràn” đối với nước tiếp nhận đầu tư. Bên cạnh đó, các dự án FDI thường
hướng về xuất khẩu nên thông qua các dự án FDI, nước tiếp nhận đầu tư có thể học
hỏi được phía nước ngoài về cách thức tiếp cận thị trường cũng như mở rộng thị
8
Luận văn tốt nghiệp
trường xuất khẩu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp công nghệ được chuyển giao
thường không phải là công nghệ hiện đại, giá trị không đúng như trong khai báo của
nhà đầu tư nước ngoài nên nếu trình độ công nghệ của nước nhận đầu tư chưa cao sẽ
chấp nhận công nghệ lạc hậu được đưa vào nước mình. Đây cũng là thực trạng chung
với các nước đang phát triển trong thu hút vốn FDI. Điều này cũng tạo ra khó khăn
cho các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư khi thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư
cho các dự án FDI.
Bốn là, dự án FDI chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, tính phức tạp. Các dự án FDI
thường được tiến hành ở những thị trường mới so với nhà đầu tư nước ngoài. Họ lựa
chọn nơi này để đầu tư chủ yếu vì sức hấp dẫn của thị trường, nguồn cung các
nguyên liệu đầu vào… nhằm giảm giá thành sản xuất. Do đây là thị trường mới nên
đòi hỏi nhà đầu tư nước ngoài cần có thời gian tìm hiểu nhiều hơn trước khi tiến hành
đầu tư.
2.4. Phân loại dự án FDI:
Có nhiều cách khác nhau để phân loại dự án FDI tùy theo mục đích quản lý
hay đánh giá dự án. Theo đó, người ta có thể phân loại dự án FDI theo một số tiêu
thức như:
Theo hình thức đầu tư, dự án FDI được chia thành: dự án đầu tư theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC, dự án liên doanh, dự án 100% vốn nước
ngoài, dự án theo hình thức BOT. Mỗi hình thức đầu tư này lại gắn liền với một cơ
cấu tổ chức, quản lý khác nhau. Thông qua việc phân chia dự án theo từng hình thức
đầu tư này, các cơ quan quản lý đầu tư có thể đánh giá, xem xét tình hình, sự phát
triển cũng như xu hướng chuyển đổi của từng hình thức đầu tư theo thời kì, giai
đoạn. Ví dụ như ở Việt Nam trước đây, hình thức đầu tư liên doanh chiếm đa số thì
hiện nay hình thức 100% vốn nước ngoài với những ưu thế nhà đầu tư nước ngoài có
thể hoàn toàn trực tiếp quản lý với dự án chiếm đa số trong các loại hình đầu tư.
Theo lĩnh vực đầu tư, dự án FDI có thể được chia thành dự án FDI đầu tư vào
lĩnh vực công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ. Sự phân chia theo tiêu thức
- Kinh tế đầu tư 46B -
9
này gắn liền với cơ cấu ngành của nền kinh tế. Từ đó có thể đánh giá được tác động
của các dự án FDI đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung cũng như vai trò
của khu vực FDI với sự phát triển của từng ngành nói riêng để có những biện pháp
điều chỉnh hay những biện pháp khuyến khích kịp thời.
Theo địa giới hành chính, có thể phân chia dự án FDI theo các địa phương và
vùng lãnh thổ. Việc so sánh cũng như đánh giá số lượng dự án FDI tại các địa
phương khác nhau cho phép tìm ra các nguyên nhân giải thích tại sao có địa phương
dù ở vị trí thuận lợi nhưng vẫn chưa thu hút được nhiều dự án FDI tương xứng với
tiềm năng của mình để từng địa phương có thể nhìn nhận, xem xét, dựa trên mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư tại tỉnh mình.
Bên cạnh các tiêu thức trên, các dự án FDI có thể được phân chia theo một số
tiêu thức khác như: dựa vào mức độ tập trung của các dự án FDI có thể chia thành dự
án FDI đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và các dự
án FDI độc lập nằm ngoài khu công nghiệp; dựa vào đối tác đầu tư nước ngoài có thể
phân chia dự án FDI theo từng đối tác riêng để có những biện pháp riêng nhằm đánh
giá cũng như đưa ra các biện pháp nhằm thu hút FDI theo từng đối tác riêng.
Như vậy, có nhiều cách phân loại dự án FDI khác nhau tùy theo mục đích
quản lý cũng như đánh giá về tình hình thu hút FDI theo từng giai đoạn, thời kì nhằm
đưa ra các biện pháp phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.5. Chu kì của một dự án FDI:
Cũng giống như các dự án khác, dự án FDI được tiến hành trong một khoảng
thời gian cụ thể và được tiến hành theo một chu trình nhất định từ khi chỉ còn là ý
tưởng của nhà đầu tư cho đến khi dự án kết thúc gọi là chu kì của dự án đầu tư. Chu
kì của một dự án FDI có thể được hiểu là các thời kì, giai đoạn mà dự án FDI trải
qua, bắt đầu từ khi có ý tưởng đầu tư cho đến khi kết thúc dự án. Các thời kì, giai
đoạn này được đánh dấu bằng các sự kiện hay điểm mốc để chuyển sang giai đoạn
tiếp theo.
10