Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chuyên đề thực tập  tổng quan về ngành công nghiệp và các tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành công
PREMIUM
Số trang
124
Kích thước
865.4 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1355

Chuyên đề thực tập tổng quan về ngành công nghiệp và các tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành công

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Công nghiệp

Chương 1: Tổng quan về ngành công nghiệp và các tiêu chí đánh giá sự phát triển

ngành công nghiệp

1.1. Tổng quan về ngành công nghiệp

1.1.1. Khái niệm về ngành công nghiệp

Ngành công nghiệp là tập hợp các đơn vị kinh tế sử dụng máy móc, thiết bị để thực hiện

hoạt động: khai thác, chế biến để tạo ra các sản phẩm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng

đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.

1.1.2. Vai trò của ngành công nghiệp

Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân bao gồm tất

cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công nghiệp thực hiện chức

năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của công nghiệp là toàn bộ công cụ lao

động phần lớn đối tượng lao động và vật phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu

dùng và sản xuất của xã hội. Quá trình phát triển sản xuất công nghiệp cả về cơ sở vật

chất kỹ thuật cũng như kinh tế xã hội đã khẳng định vai trò chủ đạo và từng bước phát

huy vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.

Biểu hiện của tính chủ đạo:

Về mặt kỹ thuật: Đóng vai trò chủ đạo mở đường dẫn dắt, thúc đẩy, quyết định sự phát

triển vì cái quyết định để tạo ra “sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới” đó là năng suất

lao động, nhưng năng suất lao động phụ thuộc vào công cụ,...do ngành công nghiệp tạo

ra.

Về mặt tổ chức sản xuất: Quy mô lớn, sản xuất theo dây chuyền. Là hình mẫu cho các

ngành khác đi theo.

Về mặt con người (xã hội): Giai cấp công nhân đứng đầu hàng trong các giai cấp của xã

hội.

1.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành công nghiệp.

1.2.1. Tốc độ tăng trưởng ngành

1

Tốc độ tăng trưởng là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đánh giá mặt lượng của sự phát triển

Công nghiệp, tốc độ tăng trưởng phản ánh sự gia tăng về quy mô của tổng sản phẩm trong

nước ( GDP ) năm sau so với năm trước và giữa các thời kỳ với nhau của ngành công

nghiệ p. Để đánh giá tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp chủ yếu dựa trên 2 phương

pháp tính: giá trị sản xuất công nghiệp theo giá cố định năm 1994 và chỉ số sản xuất công

nghiệp (Index Industry Products ) gọi tắt là chỉ số IIP.

Song, hiện nay, hầu hết quốc gia trên thế giới không còn áp dụng phương pháp xác định

giá trị trực tiếp từ giá và lượng của từng loại sản phẩm để tính giá trị sản xuất theo giá cố

định và tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp.

Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế về số liệu thống kê công nghiệp, thời

gian qua Tổng Cục Thống kê đã phối hợp với cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật bản (JICA)

và Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật bản (METI) nghiên cứu xây dựng

phương pháp thống kê công nghiệp mới đặt cơ sở cho việc thay thế phương pháp hiện

hành, đó là phương pháp Chỉ số sản xuất công nghiệp (Index - Industry Products) gọi tắt là

chỉ số IIP

Iq: tốc độ phát triển sản xuất một ngành, một tỉnh, TP, một khu vực

iq: tốc độ phát triển của sản phẩm hoặc ngành cấp dưới liền kề

Wqo : quyền số được tính bằng giá trị tăng thêm kỳ gốc (Giá trị tăng thêm: Phản

ánh giá trị hàng hóa, dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Vì không

bao gồm chi phí trung gian nên nó phản ánh đúng mức kết quả hoạt động do cơ sở sản

xuất ra).

Bản chất của phương pháp này là xác định tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất công

nghiệp dựa vào khối lượng sản phẩm sản xuất. Toàn bộ doanh nghiệp lớn, vừa và một

phần các doanh nghiệp nhỏ cùng các sản phẩm chủ yếu do tỉnh sản xuất đều được tham

gia vào tính toán tốc độ tăng trưởng. Với phương pháp IIP, ta có thể đánh giá được tốc độ

2

tăng trưởng của một sản phẩm, một ngành cụ thể hay toàn bộ ngành công nghiệp một cách

chính xác, kịp thời. Đáp ứng nhu cầu điều hành nhanh, linh hoạt của các cấp quản lý.

1.2.2. Sự phát triển của các yếu tố nguồn lực

 Tổng Vốn đầu tư

Quy mô vốn lớn, vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn

Nhu cầu đầu tư phát triển công nghiệp lớn hơn nhiều so với các ngành nông nghiệp và

dịch vụ là do đặc điểm kỹ thuật của các ngành công nghiệp quyết định. Đặc điểm kinh tế -

kỹ thuật này thể hiện ở chỗ các tài sản cố định và đầu tư dài hạn của công nghiệp là rất

lớn. Các ngành có đặc điểm này rõ nhất là các ngành công nghiệp khai thác (than, dầu

mỏ, khí đốt...), công nghiệp thuộc kết cấu hạ tầng (sản xuất và truyền dẫn điện, sản xuất

và truyền dẫn nước...), công nghiệp phục vụ nông nghiệp (cơ khí, hoá chất). Các ngành

công nghiệp khai thác, công nghiệp cơ khí, công nghiệp thuộc kết cấu hạ tầng có giá trị

tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn, kết quả của đầu tư phát triển lớn gấp nhiều lần

các cơ sở công nghiệp khác.

Mặc dù đầu tư phát triển công nghiệp là khoản vốn lớn, thu hồi chậm nhưng rất cần cho

nền kinh tế. Với nhiệm vụ chi đầu tư phát triển công nghiệp như vậy, quy mô và tỷ trọng

đầu tư phát triển công nghiệp trong thực tế là rất lớn.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:

Dùng hệ số ICOR để phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong ngành công nghiệp.Nếu

vốn đầu tư được phân bổ vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo thu nhập cao, sử

dụng vốn đầu tư có hiệu quả hơn, tránh được thất thoát, lãng phí thì hệ số ICOR sẽ thấp

hơn. ICOR càng cao thể hiện đầu tư càng không có hiệu quả.

 Nguồn lao động

Đặc điểm nguồn lao động trong ngành công nghiệp:

Nhân lực công nghiệp bắt buộc phải qua đào tạo. Lao động tập trung, làm việc theo dây

chuyển sản xuất. Nguồn nhân lực công nghiệp phải được phân bố tập trung gắn với khu

đô thị, khu cụm công nghiệp. Tác phong công nghiệp là tính kỷ luật cao. Trình độ nhận

thức của nhân lực công nghiệp đòi hỏi phải cao. Trong quá trình sử dụng cần phải chú

trọng đào tạo, đào tạo lại để hình thành đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý giỏi.

3

Năng suất lao động là hiệu quả của hoạt động có ích của con người trong một đơn vị thời

gian, nó được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian

hoặc hao phí để sản xuất ra được một sản phẩm.

Bản chất của năng suất lao động là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hay mức hiệu quả của lao

động. Năng suất lao động thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh

tế nói chung. Năng suất lao động cao có nghĩa là ngành công nghiệp có thể sản xuất

ra nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ hơn với cùng một lượng nguyên liệu/yếu tố đầu vào, hoặc

sản xuất ra số lượng hàng hóa tương đương với lượng nguyên liệu/yếu tố đầu vào ít hơn.

Năng suất lao động ảnh hưởng đến tất cả mọi người:

 Đối với doanh nghiệp, tăng năng suất lao động tạo ra lợi nhuận lớn hơn và thêm cơ hội

đầu tư.

 Đối với người lao động tăng năng suất lao động dẫn tới lương cao hơn và điều kiện

làm việc tốt hơn. Về lâu dài, tăng năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng đối với tạo

việc làm.

Chất lượng nguồn lao động là mức độ đáp ứng về khả năng làm việc của người lao động

với yêu cầu công việc của tổ chức và đảm bảo cho tổ chức thực hiện thắng lợi mực tiêu

cũng như thỏa mãn cao nhất nhu cầu của ngươi lao động. Được đánh giá dựa trên: Thể

lực, trí lực, tâm lực

1.2.3. Cơ cấu ngành công nghiệp

Cơ cấu ngành CN là số lượng ngành CN chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất

giữa các ngành đó biểu hiện quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong lĩnh vực sản xuất giữa các

nganh đó với nhau. Cơ cấu ngành CN biểu hiện trình độ phát triển CN của đất nước, trình

độ trang bị kỹ thuật, trình độ tự chủ của nến kinh tế cũng như trình độ tăng năng suất lao

động xã hội và mức độ hiệu quả của sản xuất.

Cơ cấu công nghiệp xem xét trên các mặt chủ yếu sau:

Cơ cấu công nghiệp theo ngành: Là tỉ trọng giá trị sản xuất của từng ngành (nhóm ngành) trong

toàn bộ hệ thống các ngành công nghiệp.

Cơ cấu công nghiệp theo lãnh thổ: Sự phân hóa lãnh thổ CN là sự thể hiện ở mức độ tập trung công

nghiệp trên một vùng lãnh thổ.

4

Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế bao gồm: khu vực Nhà nước (gồm trung

ương và địa phương), khu vực ngoài Nhà nước (gồm tập thể, tư nhân, cá thể), khu vực có

vốn đầu tư nước ngoài.

Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là sự thay đổi cơ cấu công nghiệp cả trên khía cạnh các

bộ phận cơ cấu ngành, vùng, thành phần, mối quan hệ giữa chúng cả trên khía cạnh số

lượng và chất lượng của cơ cấu, để phù hợp với môi trường kinh tế tổng thể bảo đảm phát

triển kinh tế bền vững.

1.2.4. Đóng góp của ngành công nghiệp tới phát triển nền kinh tế

Đóng góp và đẩy mạnh tốc độ đô thị hoá

Đóng góp và sự phát triển liên kết giữa các ngành

Đóng góp và phân công lao động

Chương 2: Đánh giá tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam giai đoan 2011-2016

2.1.Tổng quan về ngành công nghiệp Việt Nam

Sau gần 30 năm "Đổi mới", Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Các

ngành công nghiệp đã phát triển nhanh chóng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế

trong thời gian qua. Một số sản phẩm và doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đã khẳng

định được vị thế trên thị trường quốc tế. Tuy vậy, công nghiệp Việt Nam còn bộc lộ nhiều

yếu kém: tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư nước ngoài, vào giá nhân công rẻ với tay

nghề thấp, vào khai thác tài nguyên thiên nhiên; chưa chú trọng đến công nghệ, kỹ thuật

và lao động chất lượng cao, các ngành công nghiệp cạnh tranh rất yếu ngay tại thị trường

nội địa…

Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế -

xã hội, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và phát triển công nghiệp nói

riêng đã liên tục được bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước

trong bối cảnh tình hình mới. Tăng trưởng ngành công nghiệp đã có dấu hiệu phục hồi

trong năm 2015 và dự báo sẽ tăng trưởng cao hơn trong giai đoạn 2016-2020, nhất là

trong bối cảnh Việt Nam tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới,

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Có tận dụng được các cơ hội này hay

không, phụ thuộc vào nhận thức và sự chuẩn bị của các doanh nghiệp (DN).

Sản xuất công nghiệp đã ngày càng có đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế của đất

nước. Nhìn lại chặng đường 5 năm giai đoạn 2011 - 2015, nhiều ngành công nghiệp của

5

Việt Nam đã đi lên và đạt được nhiều kết quả tích cực. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp

đã tăng 7,6%, giá trị sản xuất tăng bình quân 10% trong giai đoạn 2011 – 2015. Theo Bộ

Công Thương, ngành sản xuất công nghiệp đã có bước phát triển và chuyển dịch cơ cấu

theo hướng tích cực khi tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo tăng cao…

Tuy nhiên, nhiều ngành công nghiệp trọng điểm vẫn chưa có sức bật mạnh mẽ, xứng đáng

với tiềm năng của đất nước. Phần lớn đều là những ngành sản xuất thô, có tính gia công

cao và chưa mang lại nhiều gia trị gia tăng cho đất nước và thiếu những ngành công

nghiệp mang tính nền tảng như công nghiệp hỗ trợ. Trước những thách thức mới này, để

khai thác hiệu quả và hợp lý nhất mọi nguồn lực và cơ hội của quốc gia, nhằm phát triển

các ngành công nghiệp nhanh và bền vững mà công cụ quan trọng là có được một hệ

thống các chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn, được thực thi mạnh mẽ và quyết

liệt

2.2. Đánh giá tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2011-2016

2.2.1. Sự phát triển các yếu tố nguồn lực

Yếu tố vốn

Kể từ khi đổi mới đường lối kinh tế, nền công nghiệp nước ta đạt tốc độ tăng trưởng khá

cao, nhưng chủ yếu là tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào tăng quy mô vốn, tăng khai

thác tài nguyên đất đai, khoáng sản và giá lao động rẻ, chưa chú trọng tăng trưởng theo

chiều sâu. Nước ta có thể và cần phải huy động tối đa nội lực, nhất là nguồn lực tài chính

còn tiềm tàng trong nền kinh tế để nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại từ công nghệ

nguồn với giá thấp, đẩy mạnh đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,... nhằm đổi

mới cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của các doanh

nghiệp, chuyển mạnh nền kinh tế sang phát triển theo chiều sâu.

Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá có hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn

ngoài nước. Giữa 2 nguồn vốn đầu tưu trong nước và nước ngoài thì vốn đầu tư trong

nước được coi là giữ vai trò quyết định cho sự phát triển, vốn đầu tư nước ngoài được xác

định là rất quan trọng, để tạo ra sự đột phá cho sự phát triển.

Nguồn vốn trong nước

Tiềm lực tài chính quốc gia tiếp tục được tăng cường và củng cố ở cả ba cấp độ

tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư. Giai đoạn 2011 – 2015,

tính chung tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) 5 năm 2011 - 2015 đạt hơn 220 tỷ đồng,

6

tăng gấp 2 lần giai đoạn 2006 – 2010(NSNN đạt 100 tỷ đồng) Bên cạnh đó, cơ cấu thu

NSNN tiếp tục có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. sự phụ thuộc vào

nguồn thu từ dầu thô, thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu giảm dần. Trong cơ

cấu thu nội địa, nguồn thu từ sản xuất - kinh doanh đã trở thành nguồn thu giữ vai trò

quan trọng của NSNN.

Nguồn vốn từ nước ngoài

Cơ cấu của các nguồn vốn ngày càng đa dạng, tỷ trọng các nguồn vốn cũng có sự thay đổi

rõ rệt qua từng năm: giảm dần tỷ trọng vốn vay ngân sách nhà nước, đồng thời tăng tỷ

trọng cũng như vai trò của nguốn vốn vay và các nguồn vốn khác. Về thu hút vốn hỗ trợ

phát triển chính thức (ODA), tổng số vốn cam kết trong giai đoạn 2011 - 2015 ước đạt

khoảng 30 tỷ USD, trong đó số giải ngân ước đạt 23 tỷ USD. Quy mô huy động vốn trên

thị trường chứng khoán giai đoạn 2011 - 2014 gấp gần 3 lần so với giai đoạn 2006 - 2010,

đóng góp ngày càng lớn vào tổng đầu tư toàn xã hội.

Bảng 2.1: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành phân

theo ngành kinh tế

Vốn ngân sách

Nhà nước Vốn vay

Vốn của các doanh nghiệp Nhà

nước và nguồn vốn khác

Giá thực tế

(Tỷ đồng)

2011 177.977,0 114.085,0 49.493,0

2012 205.022,0 149.516,0 51.976,0

2013 207.152,0 162.486,0 72.286,0

2014 207.704,0 198.202,0 80.898,0

Sơ bộ 2015 220.405,0 211.000,0 88.100,0

Cơ cấu(%)

2011 52,1 33,4 14,5

2012 50,4 36,8 12,8

2013 46,9 36,8 16,3

2014 42,7 40,7 16,6

Sơ bộ 2015 42,4 40,6 17,0

7

Nguồn : Tổng cục thống kê

Hiệu quả sử dụng vốn:

Trên thưc tiễn về tình hình tăng trưởng của Việt Nam: mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa

vào vốn, mà hiệu quả lại không cao cùng với năng suất lao động thấp, thì nhu cầu đối với

tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn cao, nên tăng trưởng kinh tế tạo sức ép lạm phát. Bên cạnh

đó, năng lực cạnh tranh của VIệt Nam ngày càng giảm đi kèm theo xu hướng mở cửa

trong quá trình thu hút vốn do đó yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng đặt ra ở đại hội

XI(2011) đó là đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều rộng kết hợp chiều sâu.

Nhìn vào thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015 cho thấy: quy mô

GDP ở mức thấp so với các nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng:

5-6,5%/năm, GDP/người năm 2014 đạt: 2,052 USD đã cho thấy thực trạng tăng trưởng

của nước ta

Theo các yếu tố đầu vào:

Bảng 2.2. Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào sản xuát

Năm Tốc độ tăng

GDP

Tỷ lệ đóng góp

của K

Tỷ lệ đóng góp

của L

Tỷ lệ đống góp

của TFP

2011 6,24 60.61 25.37 14.01

2012 5,25 55.68 24.37 19.95

2013 5,42 50.46 17.04 32.51

2014 5,98 53.42 9.85 36.72

2015 6,68 49.84 1.74 48.43

2011-2015 5.91 53,42 16.25 30.3

( Nguồn: Báo cáo năng suất năm 2015)

Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy: Việt Nam tăng trưởng vẫn dưạ vào vốn , giai đoạn

2011 - 2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt khoảng 31% GDP (mục tiêu đề ra là

33,5% đến 35%), tuy có giảm về tỷ trọng so với GDP, song quy mô huy động giai đoạn

8

2011 - 2015 vẫn gấp khoảng 1,8 lần giai đoạn 2006 - 2010. Và hiệu quả sử dụng vốn vẫn

còn hạn chế tuy nhiên được cải thiện hơn : Khởi đầu giai đoạn 2011-2015, để khắc phục

những bất cập trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư theo phương thức cũ, việc tái cơ cấu

đầu tư, đặc biệt là Luật Đầu tư công đã được thông qua, quá trình tái cơ cấu đầu tư công

bước đầu đã có chuyển biến tích cực, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP có xu hướng giảm dần, tuy

nhiên tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước vẫn ở mức cao (bình quân giai đoạn

2011 – 2015 đạt khoảng 39,1%) do Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho

hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hạ tầng cơ sở ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xoá đói giảm

nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng mặt chủ quan vẫn là cơ chế quản lý đầu tư xây

dựng lỏng lẻo, lãng phí nghiêm trọng, quy hoạch đầu chưa hợp lý… và tỷ trọng nguồn

vốn khu vực ngoài nhà nước ( khu vực có nhiều tiềm năng và có hệ số ICOR thấp) đã

tăng từ mức 36,1%, năm 2010 lên trên 40%. Kết quả hệ số ICOR cho thấy, nếu giai đoạn

2001-2005 để tạo ta 1đồng GDP phải đầu tư 4,88 đồng giá trị tích luỹ tào sản, giai đoạn

2006-2010 cần 6,96 đồng thì sang giai đoạn này hệ số ICOR tiếp tục tăng với 6,92 đồng

giá trị tích luỹ tài sản để tạo ra 1 đồng GDP. ICOR của Việt Nam tuy có giảm nhưng vẫn

ở mức cao chứng tỏ hiệu quả đầu tư không những thấp, mà còn sụt giảm. ICOR năm

2011 cao gấp hơn 1,5 lần năm 1996, cao gấp trên 1,2 lần năm 2001, cao gấp 1,3 lần năm

2006 đang đặt ra vấn đề về hiệu quả sử dung vốn của Việt Nam.?

Việt Nam đã có chuyển biến trong việc phát triển vốn nhân lực để đáp ứng quá trình công

nghiệp hoá-hiện đại hoá theo như Chiến lược phát triển giai đoạn 2011-2020 đã nêu.

Tuy đặt ra vấn đề trong việc tăng trưởng dài hạn đó là phát triển về chất, tức là tăng

trưởng theo chiều sâu như đại hội XI đã nêu, Việt Nam vẫn đang gặp những trợ ngại và

thách thức để có thể hoàn thiện theo đúng những gì đặt ra và cần nỗ lực hơn nữa trong

thười gian dài, do đó các giải pháp cần phải được nêu ra để nhằm hoàn thiện hơn trong

quá trình tăng trưởng.

Yếu tố lao động

Năng suất lao động:

Năm 2014, Việt Nam có gần 5,4 triệu lao động trình độ cao, bao gồm 585 nghìn lãnh đạo

trong các ngành, các cấp và các đơn vị (chiếm 10,9% lao động trình độ cao); 3.165 nghìn

lao động chuyên môn kỹ thuật bậc cao (chiếm 58,7%) và 1.638 nghìn lao động chuyên

môn kỹ thuật bậc trung (chiếm 30,4%). Giai đoạn 2009-2014, lao động trình độ cao tăng

khá nhanh, từ 4,5 triệu người lên 5,4 triệu người. Các nước đang phát triển thường đứng

trước tình trạng khó khăn do trình độ chuyên môn thấp của người lao động.

9

Bảng 2.3: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo

ngành kinh tế.

Nguồn: Tổng cục thống kê.

Qua bảng số liệu ta thấy được số lượng lao động trong các ngành công nghiệp khá cao và

tăng dần qua các năm, . Chiếm tỉ trọng nhiều nhất trong các ngành nêu trong bảng là công

nghiệp chế biến, chế tạo sau đó là xây dựng và ngành khai khoáng.

Mặc dù tăng nhanh nhưng quy mô lao động trình độ cao vẫn còn nhỏ bé so với yêu cầu

của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Với gần 5,4 triệu người,

lao động trình độ cao hiện chỉ chiếm 10,2% tổng việc làm cả nước. Giai đoạn 2009-2014,

lao động trình độ cao chỉ tăng bình quân mỗi năm 175nghìn người, bằng 1/5 mức tăng của

tổng việc làm.

Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển kinh tế, năng suất lao động xã hội của nước ta có xu

hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong

nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm,

năng suất lao động năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu

đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người, cao gấp gần 1,6 lần so với năm

2010. Tuy nhiên vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. “Tính bình quân 17 năm

trở lại đây, năng suất lao động xã hội của nước ta đạt trên 24 triệu đồng/lao động/năm

(tương đương khoảng 1.600 USD/lao động/năm), thấp hơn nhiều so với Thái Lan,

Indonesia, Malaysia, Philippines, và Hàn Quốc” – Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính toán.

10

Nguyên nhân rõ ràng nhất của tốc độ tăng năng suất lao động thấp là do nền kinh tế đã

không thể duy trì tốc độ tăng trưởng như trong quá khứ khi chỉ đạt tốc độ tăng trưởng

kinh tế 5,73%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng việc làm vẫn ổn định ở mức 2,43%/năm.

Ta nhận thấy rằng trong ngành kinh tế nói chung cũng như ngành công nghiệp nói riêng

thì hệ số ICOR còn cao, nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn còn thấp. Không thể phủ nhận,

hiệu quả đầu tư đã có bước cải thiện, với ICOR giai đoạn 2011-2015 đạt 6,91, giảm so với

giai đoạn 2006-2010 (là 6,96). Cũng rất đáng ghi nhận khi trong bối cảnh tổng vốn đầu tư

toàn xã hội so với GDP giảm mạnh (còn khoảng 32,6% GDP vào năm 2015) thì tốc độ

tăng trưởng vẫn duy trì ở mức hợp lý. Song cũng cần thẳng thắn, ICOR của Việt Nam còn

cao, hiệu quả đầu tư còn thấp so với nhiều nền kinh tế trong khu vực. Nguyên nhân một

phần là do nền kinh tế đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ

tầng ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.

Nhưng nếu so với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng, thì hệ số

ICOR của Việt Nam hiện vẫn cao.

Chính phủ cũng đã thừa nhận điều này và thậm chí khẳng định, việc sử dụng vốn vay ở

một số dự án còn kém hiệu, còn thất thoát, lãng phí. Các dự án đầu tư công dù thời gian

qua đã được cải thiện đáng kể, song tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí cũng

còn nhiều.

Nước ta hiện nay tăng trưởng còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn, và khi tăng trưởng phụ

thuộc quá nhiều vào vốn như vậy dễ gây ra hiệu ứng phụ. Hạn chế về vốn đầu tư là có

hạn, bên cạnh đó do năng suất lao động còn thấp, phần giá trị thặng dư để tích lũy đầu tư

mở rộng không nhiều, nên tích lũy trong nước/gdp còn nhỏ. Nếu mà tăng trưởng chỉ dựa

vào vốn đầu tư sẽ phải tăng nợ nước ngoài, tặng nợ công và thời hạn vay ngắn hạn, gây áp

lực trả nợ tăng lên. Việc đầu tư không hiệu quả còn gây làm cho lạm phát gia tăng trong

những năm gần đây khiến cho vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế trở thành nhu cầu bức thiết.

Tuy nhiên, cần nhìn vấn đề này một cách toàn diện mang tính chiến lược và quan trọng

hơn cả là thể chế và con người

11

Chất lượng lao động:

Thể lực

Hiện nay tầm vóc người Việt Nam còn thua kém rất nhiều so với một số nước Châu Á và

càng xa hơn so với các quốc gia Châu Âu. Bằng một phép so sánh đơn giản ta có thể thấy

rằng chiều cao trung bình của Việt Nam so với Thế Giới là rất thấp, chiều cao trung bình

của nam thanh niên Việt Nam chỉ đạt 163,7cm, thấp hơn so với chuẩn của WHO 13,1cm;

của nữ là 153cm, thấp hơn chuẩn 10,7cm.

Mặc dù theo điều tra của các cơ quan chức năng, trong những năm gần đây, thể lực và

tầm vóc của người Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể, trong vòng 35 năm chiều cao

trung bình của người Việt cao thêm 4m, tuy nhiên, sự cải thiện này so với sự phát triển

của các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore,... là quá chậm.

Bên cạnh đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn ở mức thấp so với nhiều

nước trong khu vực và trên thế và điều này ảnh hưởng đáng kể đến khả năng tái sản xuất

của người lao động.

Tất nhiên, thể lực không phải là yếu tố chính quyết định chất lượng nguồn nhân lực; song,

cũng không thể phủ nhận một thực tế là, nếu con người không được nâng cao thể lực thì

cũng khó có thể phát triển được trí tuệ, khả năng sáng tạo trong học tập và lao động

Trí lực

Nhìn một cách khái quát, ta có thể thấy trí lực của lực lượng lao động Việt Nam hiện nay

đang có những bước thay đổi theo hướng tích cực hơn, đội ngũ lực lượng lao động cũng

được quan tâm nhiều hơn, việc tiếp cận với khoa học cộng nghệ hiện đại ngày càng tăng

lên. Người Việt Nam được đánh giá là có nhiều tư chất thông minh và sáng tạo, nhạy bén

trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Đây là điểm nổi trội của nguồn nhân lực nước ta. Theo

Báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc, chỉ số phát triển con người (HDI) của

Việt Nam có sự tăng nhanh và liên tục. “Năm 1995 Việt Nam mới chỉ đứng thứ 7/10

12

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!