Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chuyên đề thực tập giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may việt nam đến năm 2020
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam.
Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu
thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc
biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển,
góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước. Trong quá trình Công
nghiệp hoá- Hiện đại hoá hiện nay, ngành Dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi
nhọn trong nền kinh tế được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong
mấy năm gần đây, các thị trường luôn được rộng mở,số lao động trong ngành ngày
càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, giá trị đóng góp của
ngành vào thu nhập quốc dân…. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
ngành dệt may Việt Nam đã và đang gặp những vấn đề cần khắc phục như chất
lượng tăng trưởng của ngành thấp, vốn đầu tư xây dựng không hiệu quả, mất cân
đối giữa hai ngành Dệt và May…Trở ngại lớn đối với sự phát triển của ngành Dệt
May hiện nay là tỷ lệ nội địa hóa còn rất thấp, sự phụ thuộc rất lớn vào nguyên phụ
liệu nhập khẩu. Điều đó là do ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành DMVN chưa
phát triển tương xứng với sự phát triển của ngành dệt may để đáp ứng nhu cầu của
ngành dệt may trong nước. Những tồn tại và hạn chế của ngành CNHT đã làm cho
ngành DMVN chưa phát triển một cách tương xứng so với tiểm năng thực sự của
ngành.
Trong khi đó, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam
đến năm 2020 là trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi
nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều
việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu
vực và thế giới; từng bước đưa ngành Dệt May thoát khỏi tình trạng gia công sản
xuất.
Do đó, để đạt được mục tiêu đã định, thì việc nghiên cứu thực trạng của ngành
công nghiệp hỗ trợ ngành Dệt May Việt sẽ đóng góp một vai trò quan trọng. Nó phù
hợp với yêu cầu thực tế của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như yêu
cầu của sự phát triển ngành dệt may.
Từ yêu cầu thực tế đó và mục đích tìm hiểu những vấn đề lớn liên quan đến ngành
CNHT ngành DMVN trong giai đoạn hiện nay và thử tìm một số giải pháp để khắc
Đoàn Thị Hoài Thương 1 Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp
phục những vấn đề đó, sau quá trình thực tập tại Vụ Công Nghiệp, thuộc Bộ Kế
Hoạch và Đầu Tư, em đã quyết định lựa chọn đề tài
“ Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến
năm 2020”
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực
tiễn ngành công nghiệp hỗ trợ ngànhdệt may Việt Nam qua đó xem xét thực trạng
phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam, những tồn tại,
hạn chế của ngành. Từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển
cho ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020.
Đây là kết quả của quá trình thực tập và nghiên cứu với việc áp dụng một số
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
thống kê mô tả, phương pháp hệ thống hoá và phương pháp suy luận logic.
Trên cơ sở mục đích, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, nội dung của đề tài
nghiên cứu được chia là ba chương, cụ thể như sau:
Chương I: Một số lý luận về công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may
Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt
Nam
Chương III: Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may
Việt Nam đến năm 2020
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS- TS
Nguyễn Ngọc Sơn đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Đoàn Thị Hoài Thương 2 Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HỔ TRỢ NGÀNH DỆT
MAY
1.1. Khái niệm chung về công nghiệp hỗ trợ
1.1.1. Khái niệm chung.
Công nghiệp hỗ trợ (supporting industry) là một khái niệm khá mới đối với
Viêt Nam. Gần đây khái niệm công nghiệp hỗ trợ đã bắt đầu được đề cập đến ngày
càng nhiều với cách nhìn nhận ngày càng rõ hơn tầm quan trọng của nó trong sự
phát triển của ngành công nghiệp của đất nước.
“ Công nghiệp hỗ trợ” là một từ tiếng Anh – Nhật được các doanh nghiệp Nhật
sử dụng từ lâu trước khi trở thành thuật ngữ chính thức. thuật ngữ này trở nên thông
dụng ở Nhật vào khoảng giữa những năm 1980. Và được chính thức sử dụng ở Việt
Nam từ năm 2003 bắt đầu từ khi Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn I
( 2003 – 2005) đề xuất việc soạn thảo quy hoạch tổn thể về phát triển công nghiệp
hỗ trợ như là một biện pháp cấp bách để xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Hiểu theo nghĩa rộng thì CNHT là toàn bộ các ngành công nghiệp cung cấp đầu
vào cho sản phẩm.
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, công nghiệp hỗ trợ là ngành công nghiệp sản xuất
những sản phẩm trung gian, các linh kiện, phụ tung và công cụ có vai trò hỗ trợ cho
việc sản xuất một loại sản phẩm cuối cùng nhất định.
Tuỳ từng loại sản phẩm cụ thể cần sản xuất, những sản phẩm trung gian có
thể bao gồm nguyên liệu, vật liệu, linh kiện, phụ tùng, các bộ phận chi tiết lẻ, phụ
liệu, bao bì, nhãn mác, thuốc nhuộm, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có
thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế,… Nếu kể
các sản phẩm tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ
thấy phạm vi rõ ràng hơn: Sản phẩm CNHT thường được sản xuất với quy mô nhỏ,
thực hiện bởi các DN nhỏ và vừa. Những sản phẩm trung gian là một loại yếu tố
“đầu vào” của quá trình sản xuất công nghiệp. Do tính phức tạp của mối liên hệ sản
xuất giữa các ngành công nghiệp, việc xác định loại hình CNHT của một ngành nào
đó cũng chỉ mang tính chất tương đối.
Mỗi ngành công nghiệp đều phát triển theo chuỗi giá trị riêng biệt, song đều
có một điểm chung là được hình thành từ sự liên kết giữa 2 khu vực: khu vực
Đoàn Thị Hoài Thương 3 Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp
thượng nguồn (upstream) và khu vực hạ nguồn (downstream). Trong đó, khu vực
thượng nguồn thường được gọi là CNHT, làm nền tảng cơ sở để phát triển khu vực
hạ nguồn. Ngược lại, khu vực hạ nguồn là ngành công nghiệp chính, chỉ có thể phát
triển khi khu vực thượng nguồn phát triển, và khi khu vực hạ nguồn đã phát triển sẽ
tạo “động lực” thúc đẩy phát triển khu vực thượng nguồn.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Việc phát triển CNHT là một vấn đề rất phức tạp trong quá trình hoạch định
chiến lược phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Với các nước đang trong quá
trình công nghiệp hoá, khi các nguồn lực còn hẹp, qui mô các ngành kinh tế còn nhỏ
bé, việc giải quyết bài toán quan hệ giữa phát triển CNHT và khu vực hạ nguồn lại
càng khó khăn và phức tạp hơn. Do đó, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc
phát triển CNHT sẽ tạo lập luận cứ khoa học nhằm lựa chọn chiến lược phát triển
công nghiệp thích hợp, cụ thể:
- Một là, thị trường của khu vực hạ nguồn: Khả năng đảm bảo sự tương thích
giữa qui mô của các ngành hỗ trợ và khu vực hạ nguồn phải đủ lớn để tạo ra thị
trường ổn định phát triển có hiệu quả các ngành hỗ trợ. Nếu khu vực hạ nguồn có
qui mô nhỏ, sản xuất những sản phẩm có chủng loại đa dạng và sản lượng không
lớn thì khối lượng sản xuất của các ngành hỗ trợ cũng sẽ nhỏ, do đó, giá thành chế
tạo sẽ tăng cao. Điều này sẽ vấp phải sự từ chối của chính khu vực hạ nguồn trong
nước và gặp khó khăn khi muốn xuất khẩu sản phẩm hỗ trợ ra nước ngoài.
Thêm vào đó, cần chú trọng đến khả năng đảm bảo yêu cầu về chủng loại, chất
lượng và thời hạn cung ứng các sản phẩm hỗ trợ cho các ngành hạ nguồn vì thông
thường, yêu cầu của các DN ở khu vực hạ nguồn rất khắt khe do họ phải đảm bảo
những cam kết với khách hàng, đặc biệt là những đơn hàng xuất khẩu.
- Hai là, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ: Đây là nhân tố quan trọng
không chỉ đối với các ngành công nghiệp nói chung mà còn cả với CNHT nói riêng
do tính chất thường xuyên thay đổi để thích ứng với xu hướng phát triển của thế
giới. Vì thế, một mặt, việc áp dụng thành tựu mới của khoa học và công nghệ trong
các ngành hỗ trợ ảnh hưởng có tính chất “dẫn dắt” sự phát triển khu vực hạ nguồn
nhờ tạo ra những chi tiết, bộ phận hoặc vật liệu mới, góp phần tạo ra sự thay đổi căn
bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn; mặt khác, việc thiết kế
và chế tạo các sản phẩm mới ở khu vực hạ nguồn yêu cầu CNHT phải nghiên cứu
và chế tạo những vật liệu, phụ liệu, bộ phận hay chi tiết sản phẩm phù hợp.
Đoàn Thị Hoài Thương 4 Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp
Sự phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử cho phép “làm các bên có
cung và có cầu gần lại với nhau” và giảm thời gian giao dịch giữa họ. Điều đó cho
phép mở rộng không gian tổ chức quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và khu vực hạ
nguồn.
- Ba là, nguồn lực tài chính. Việc giải quyết mối quan hệ giữa CNHT và khu
vực hạ nguồn cũng chính là việc giải quyết mối quan hệ liên ngành công nghiệp.
Đầu tư vào các ngành hỗ trợ bất lợi hơn so với đầu tư vào khu vực hạ nguồn do khối
lượng vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và hoàn vốn đầu tư dài,
độ rủi ro trong đầu tư cao. Từ đó cho thấy việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu
tư phát triển công nghiệp và chính sách huy động các nguồn lực ấy có vai trò hết
sức to lớn trong việc bảo đảm các ngành CNHT phát triển có hiệu quả và bền vững.
Bên cạnh đó, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề quan
trọng đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện để thấy được vai tṛ cũng như
tác động của nó đến sự phát triển của ngành CNHT. Mối liên hệ giữa FDI và CNHT
có thể chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Trước khi có FDI, nhiều công ty trong nước đã sản xuất sản
phẩm và CNHT cung cấp cho các công ty lắp ráp, gia công sản xuất sản phẩm chính
cho thị trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận những công ty sản xuất CNHT sẽ
phát triển mạnh hơn nếu đựơc tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ của
các DN FDI. Sự liên kết này không phải tự nhiên hình thành mà các công ty CNHT
phải tỏ ra có tiềm năng cung ứng linh kiện, nguyên phụ liệu với chất lượng và giá
thành cạnh tranh được với hàng nhập.
Giai đoạn 2: Đồng thời với sự gia tăng của FDI, nhiều DN trong nước ra đời
trong các ngành CNHT chủ yếu để phục vụ cho hoạt động của ngành công nghiệp
chính thông qua các DN FDI. Những DN này sớm hình thành sự liên kết với DN
FDI để được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển một cách nhanh chóng.
Giai đoạn 3: Sau một thời gian hoạt động của DN FDI với qui mô sản xuất
ngày càng mở rộng, tạo ra thị trường ngày lớn cho CNHT, nhiều công ty vừa và nhỏ
ở nước ngoài sẽ đến đầu tư.
Như vậy, mối liên hệ giữa CNHT và FDI có thể được hiểu: chừng nào các công ty
nước ngoài không thấy Chính phủ đưa ra các chính sách cụ thể và dài hạn để phát
triển CNHT theo hướng giai đoạn 1 và 2 cũng như không tạo điều kiện môi trường
kinh doanh ổn định như giai đoạn 3 thì môi trường thu hút FDI ở nước đó sẽ không
được đánh giá cao.
Đoàn Thị Hoài Thương 5 Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp
- Bốn là, mức độ bảo hộ thực tế. Mức độ bảo hộ thực tế là tỷ lệ % giữa thuế
quan danh nghĩa với phần giá trị gia tăng nội địa. Chính tỷ lệ này sẽ nâng cao thêm
giá của một đơn vị sản phẩm cuối cùng. Tỷ lệ này nói lên mức bảo hộ thực tế cao
hay thấp cho các ngành sản xuất trong nước.
- Năm là, các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập
đoàn xuyên quốc gia. Việc bảo đảm quan hệ giữa khu vực hỗ trợ và khu vực hạ
nguồn không thể chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia, mà cần được thực hiện
trong phạm vi khu vực và toàn cầu. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải cân nhắc
thận trọng việc quyết định mức độ đầu tư vào khu vực CNHT trong nước. Khuynh
hướng cần tránh là đầu tư khép kín theo kiểu khu vực hạ nguồn cần gì thì đầu tư
phát triển khu vực hỗ trợ sản xuất cái đó.
Trong phát triển kinh tế thế giới hiện nay, các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế quốc tế. Với nguồn lực to lớn về tài chính,
khoa học và công nghệ, các tập đoàn này có mạng lưới sản xuất và phân phối rộng
rãi với chiến lược phát triển và thương hiệu thống nhất, các bộ phận trong mạng
lưới đó được chuyên môn hoá hợp lý nhằm khai thác lợi thế ở mỗi quốc gia và mỗi
khu vực, có những chi nhánh chuyên sản xuất một số loại chi tiết, bộ phận nhất định
cung cấp cho các chi nhánh khác ở phạm vi khu vực, thậm chí toàn cầu. Trong việc
hoạch định chiến lược phát triển các ngành CNHT, cần có các chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài và kết hợp hợp lý giữa sản xuất trong nước với các chi
nhánh của các tập đoàn xuyên quốc gia ấy.
- Sáu là, cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển CNHT. Sự
ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện trên hai mặt chủ yếu. Một mặt, quan điểm của
Nhà nước về phát triển CNHT trong định hướng chiến lược phát triển công nghiệp.
Mặt khác, các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực CNHT như chính sách nội địa
hoá, chính sách đầu tư phát triển CNHT, chính sách thuế đánh vào khâu nhập khẩu
và khâu sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, mức độ đầu tư của Nhà nước vào nghiên cứu
khoa học và công nghệ ở khu vực CNHT.
1.1.3. Vai trò công nghiệp hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế
Ngành CNHT có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành công
nghiệp chính. Nếu được phát triển một cách hợp lý, nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự
phát triển của ngành công nghiệp chính, tạo nên sự phát triển theo chiều sâu cho nền
công nghiệp. Mặt khác, nếu nó kém phát triển, thì sẽ là một rào cản rất lớn, ảnh
hưởng trực tiếp sự phát triển của ngành công nghiệp chính. Do đó có thể nói, CNHT
Đoàn Thị Hoài Thương 6 Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp
có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Vai trò
ấy thể hiện trên những mặt chủ yếu sau:
- Thứ nhất, CNHT là điều kiện quan trọng đảm bảo tính chủ động và nâng cao
giá trị gia tăng của ngành sản xuất sản phẩm của khu vực hạ nguồn. CNHT không
phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp, gia công và những công ty sản xuất các
thành phẩm cuối cùng khác phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm
này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều,
phí chuyên chở, bảo hiểm sẽ tăng lên làm tăng chi phí đầu vào. Đó là chưa kể đến
sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Vì vậy, CNHT thiếu sẽ làm giá
trị gia tăng thấp đi, ngành công nghiệp chính thiếu sức cạnh tranh.
- Thứ hai, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, giảm xuất khẩu các
sản phẩm thô và nhập khẩu nguyên phụ liệu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng (broadening) vừa
chuyên sâu (deepening).
- Thứ ba, phát huy ảnh hưởng của tác động “lan toả” trong phát triển hệ thống
công nghiệp. Hệ thống này có thể liên kết theo chiều dọc hoặc chiều ngang, tạo
thành các cụm công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Do vậy, sự
phát triển của một ngành công nghiệp trong hệ thống đó sẽ có tác động mạnh mẽ
đến các ngành công nghiệp khác, kích thích các ngành này cũng phát triển theo sao
cho đáp ứng được yêu cầu của thời kì mới.
- Thứ tư, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động, thu hút
lao động dư thừa, đặc biệt là trong những ngành sử dụng nhiều lao động thủ công,
giản đơn như dệt may, chế biến nông sản…
- Thứ năm, mở rộng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát
triển công nghiệp. Từ những nhận định trên có thể thấy CNHT phải phát triển mới
thu hút FDI, đặc biệt là FDI trong những ngành sử dụng nhiều máy móc hiện đại.
Tỷ lệ của chi phí CNHT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có
ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư
kém hấp dẫn.Tuy nhiên, cũng không phải CNHT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI.
Có nhiều trường hợp FDI đi trước và kéo theo các công ty khác (kể cả công ty trong
và ngoài nước) đầu tư phát triển CNHT, do đó có sự quan hệ tương hỗ 2 chiều giữa
FDI và CNHT.
Đoàn Thị Hoài Thương 7 Lớp: