Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chat tho trong truyen ngan vo chong a phu to hoai
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Đề bài: Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
Hướng dẫn
Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn "sinh ra để viết" (Tế Hanh). Hơn sáu mươi
năm cầm bút, ông đã để lại gần hai trăm đầu sách với nhiều thể loại – truyện
ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, hồi kí,… Riêng truyện ngắn, độc giả nhớ nhất và
bản thân nhà văn tâm đắc nhất có lẽ vẫn là Vợ chồng A Phủ. Nói về sức cuốn
hút của tác phẩm này, người đọc nhắc nhiều đến vốn hiểu biết sâu sắc về phong
tục, tập quán của các dân tộc miền núi; khả năng quan sát tinh tường, lối trần
thuật tự nhiên, hóm hỉnh của một người cầm bút từng trải, sắc sảo; tài nghệ
phân tích tâm lí nhân vật, vốn ngôn ngữ dồi dào;… Nhưng tôi vẫn nghĩ, điều
thú vị nhất là ở chỗ, Tô Hoài đã mang được vào truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
cái chất thơ riêng của miền Tây Bắc. Trong cuốn sổ tay viết văn Tô Hoài từng tâm sự về những ý thơ trong văn xuôi: "Vâng, đúng là những ý thơ, đã từ lâu tôi làm, tôi cảm thấy mà chưa phân tích
được". Theo ông, những ý thơ đó sẽ làm nên cái giá trị "ngoài tài liệu và trên cả
sự sáng tạo". Ở đây, tác giả Sổ tay viết văn đã có sự gặp gỡ với quan niệm của
nhiều nhà văn lớn:A.Puskin từng ví chất thơ trong văn xuôi như "chất nước
ngọt ngào thấm trong trái táo"; L. Tôn-xtôi không chấp nhận ranh giới giữa văn
xuôi và thi ca. Thậm chí, K. Pau-tốp-xki còn khẳng định rằng: "Văn xuôi là sợi
cốt, còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa
đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không
cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả"… Cũng chính họ – các nhà
văn đích thực, bằng tác phẩm của mình, đã giúp cho người đọc hiểu thế nào là
chất thơ trong văn xuôi. Đó có thể là những cánh đồng Nga, tâm hồn Nga hiển
hiện trên trang văn Pu-skin; là lời thì thầm của cây sồi mùa đông, là hình ảnh
người thiếu nữ muốn bay lên cùng ánh trăng (L. Tôn-xtôi) hay giai điệu ngọt
ngào, say đắm, nồng ấm tình đời của âm nhạc Véc-đi, Lắng quả thông
(Pau-tốp-xki),… Cũng có thể là khi nhà văn khiến ta nhớ mãi cả mùi cát bụi "quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đấy là mùi riêng của đất, của quê
hương này" (Thạch Lam); hay bấy nhiêu ngạc nhiên, cảm động, bâng khuâng, ăn năn, khao khát,… được đánh thức nhờ hương thơm của một bát cháo hành
(Nam Cao)… Chất thơ có khi đọng lại trong chi tiết, hình ảnh; có lúc thấm
đượm trong bức tranh đời sống hay lan toả vào câu chữ…
Trở lại với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nếu "đọc vội" cũng có thể thấy được
sự phong phú của hiện thực đời sống, đón nhận được niềm cảm thương, trân
trọng của tác giả dành cho những phận người cùng khổ ở miền cao Tây Bắc. Các giá trị đó được "tường minh" bằng cốt truyện với sự tương phản quen
thuộc của hai phần đời. Lối kể truyền thống, cách xây dựng nhân vật cũng chưa
có gì là "đột phá"… Nhưng muốn nắm bắt được những ý thơ toát lên từ cảnh
sắc và tâm hồn con người nơi đây, thì có lẽ phải đọc chậm, đọc sâu. Đọc chậm để các giác quan và trí tưởng tượng có thể "theo kịp" ngòi bút của
nhà văn khi vẽ nên quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết ở đây không
đến trong làn mưa bụi giăng mù gọi chồi non, lộc nõn; cũng không phải với
những rừng đào, rừng mận tưng bừng khoe sắc vẫn mặc nhiên hiện về mỗi khi
người ta nghĩ tới mùa xuân Tây Bắc. Nó không về theo lời hẹn trước, không
nhất nhất phải đồng hành cùng tháng ấy, ngày ấy trên tấm lịch… Trái lại, người