Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam.DOC
MIỄN PHÍ
Số trang
58
Kích thước
391.9 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
916

Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam.DOC

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47

Lời mở đầu

1. Tính tất yếu của đề án:

Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản

ngày càng trở nên tốt đẹp, đánh dấu bằng những chuyến thăm chính thức lẫn nhau của

lãnh đạo cấp cao hai nước như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của thủ tướng Việt

Nam vào tháng 4 và tháng 12 năm 2003 đã nâng quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản

lên một tầm cao mới theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài”. Chuyến

thăm này cũng là cơ sở để hình thành Sáng kiến chung Việt - Nhật, trong đó có Kế

hoạch hành động gầm 44 hạng mục với những cam kết cụ thể của hai Chính Phủ về

những biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Được thực hiện

thông qua việc rà soát, hoàn thiện các quy định về đầu tư, cải thiện các thể chế liên

quan đến đầu tư và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đến tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Nguyễn

Tấn Dũng đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Thủ tưóng hai nước đã ký Tuyên bố

chung Việt - Nhật, nâng tầm quan hệ hai nước hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì

hoà bình và phồn vinh ở Châu Á, cả hai thủ tướng đều nhất trí phấn đấu kim ngạch

thương mại hai chiều sẽ đạt 15 tỷ USD vào năm 2015.

Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới và cũng là một thị trường lớn với dân

số vào khoảng 128 triệu, có sức tiêu thụ rất lớn. Trong những năm gần đây, kim ngạch

nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454

tỷ USD và năm 2007 là 621 tỷ USD trong đó nông thuỷ sản, thực phẩm chiếm 51 tỷ

USD ( 8,3% tổng kim ngạch xuất khẩu ). Vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt

Nam sang Nhật Bản đạt 6,608 tỷ USD và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn

thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Từ số liệu nêu trên có thể thấy Việt Nam mới chỉ

chiếm một thị phần rất nhỏ tại thị trường Nhật Bản ( 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của

Nhật Bản ). Trong khi đó, thị phần của Trung Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%,

Malaixia 2,8%. Từ thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu thị trường Nhật

Bản một cách sâu sắc hơn và đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa giá

trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.

Các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đó

là nông thuỷ sản, đồ gỗ, hàng dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ. Trong đó thì nông sản

- 1 -

Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47

đóng một vai trò rất quan trọng. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam cũng đang tạo

đựơc uy tín và vị trí tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu còn thấp

và còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ các biện pháp

hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt

Nam” với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này rõ ràng hơn.

2. Mục đích:

- Làm rõ xu hướng và đặc điểm nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trên các phương

diện: nhu cầu, thị hiếu của thị trường, những rào cản nhằm hạn chế nhập khẩu của Nhật

Bản.

- Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Nhật

Bản.

- Đề xuất những giải pháp nhằm giúp hàng nông sản của Việt Nam có thể thích nghi

với các rào cản của thị trường Nhật Bản và đẩy mạnh xuất khẩu.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng: Nghiên cứu về các biện pháp hạn chế xuất khẩu để bảo hộ nền sản xuất

trong nước và bảo vệ người tiêu dùng của Nhật Bản cùng với những giải pháp nhằm

giúp cho hàng nông sản Việt Nam có thể thích ứng với những rào cản đó.

Phạm vi: Giới hạn về mặt nội dung nghiên cứu là mặt hàng nông sản xuất khẩu sang

thị trường Nhật Bản với các sản phẩm chính là cà phê, cao su và rau quả.

4. Phương pháp nghiên cứu:

So sánh, phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, báo cáo thực tiễn.

5. Kết cấu đề án:

Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh sách tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương :

Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị

trường Nhật Bản.

Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

và khả năng thích ứng.

Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất

khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.

- 2 -

Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47

Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập

khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản

1.1 Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu

1.1.1 Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu.

1.1.1.1 Thuế quan

Nhật Bản áp dụng 4 hệ thống thuế như sau :

- Thuế suất chung: mức thuế cơ bản căn cứ vào Luật thuế quan hải quan, áp dụng

trong một thời gian dài.

- Thuế suất tạm thời: là thuế suất trong một thời gian ngắn, thay thế cho thuế suất

chung.

- Thuế suất ưu đãi phổ cập ( GSP): là mức thuế áp dụng cho các nước đang phát

triển hay các khu vực lãnh thổ. Mức thuế có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng cho

các nước phát triển. Hệ thống GSP của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực vào từ ngày

1\8\1971.

- Thuế suất WTO: là mức thuế căn cứ vào cam kết WTO và các hiệp định quốc tế

khác.

Về nguyên tắc, mức thuế áp dụng theo thứ tự mức thuế GSP, mức thuế WTO, mức

thuế tạm thời và mức thuế chung. Tuy nhiên, mức thuế GSP chỉ được áp dụng trong

trường hợp thoả mãn các điều kiện cần thiết mà Nhật Bản đưa ra như : là nước đang

phát triển, là thành viên của hiệp ước Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát

triển ( UNCTAD ), là quốc gia mà Nhật Bản cho là thích hợp để hưởng quy chế GSP...

Đối với mức thuế WTO, nó chỉ được áp dụng khi thấp hơn cả mức thuế tạm thời và

mức thuế chung. Như vậy, mức thuế chung là mức thuế áp dụng cho các nước không

phải là thành viên của WTO. Trong trường hợp mức thuế tạm thời thấp hơn các mức

thuế trên, nó sẽ được áp dụng.

1.1.1.2 Các biện pháp hạn chế định lượng

Hạn ngạch nhập khẩu.

Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán trên cơ sở dự đoán các nhu cầu

về hàng hóa và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Vào đầu và giữa

năm tài chính ( từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), Bộ Công nghiệp và

Ngoại Thương ( MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo quy chế

- 3 -

Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47

hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo hàng năm của MITI

có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay một nhóm mặt

hàng. Khi nhập khẩu các mặt hàng có quy định hạn ngạch, nhà nhập khẩu phải xin hạn

ngạch nhập khẩu trước của MITI, thì mới xin được giấy phép của ngân hàng quản lý

ngoại hôi hay của cơ quan quản lý khác.

Hạn ngạch được áp dụng với 3 nhóm hàng sau:

- Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí, rượu,

chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý và các thực phẩm chịu sự kiểm

soát ( như gạo ).

- Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu

- Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về thương

mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng trong hệ thống động thực

vật(CITES).

Theo các quy định trước đây của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT

(nay là tổ chức thương mại thế giới WTO) thì các nước thành viên của tổ chức này

không được sử dụng hạn ngạch để tạo rào cản phi thuế quan cản trở buôn bán với các

nước khác. Tuy nhiên, các nước có thể sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp

ngoại lệ như : để bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá và đảm bảo an toàn tạm thời

trong trường hợp hàng nhập khẩu có thể làm tổn thương các ngành công nghiệp khác.

Hạn ngạch thuế quan

Chế độ hạn ngạch thuế là chế độ, trong đó quy định áp dụng mức thuế bằng không

(0%) hoặc thấp đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định,

nhằm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hoá vượt quá số lượng

quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Chế độ

hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm bảo hài hoà mục tiêu

bảo vệ người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất nội địa. Vì vậy, chính phủ

phải dựa trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất trong nước để đề ra mức thuế

lần một, lần hai và thời gian áp dụng... để không cản trở tự do hoá thương mại. Trong

các quy định của GATT/WTO, các nước thành viên không được sử dụng chế dộ hạn

ngạch nhập khẩu, nhưng lại thừa nhận chế độ hạn ngạch thuế với điều kiện không có sự

phân biệt đối xử với từng nước.

Hạn chế xuất khẩu tự nguyện

- 4 -

Lê Thế Anh Kinh Tế Quốc Tế 47

Là một dạng của hạn chế nhập khẩu, là thoả thuận theo đó một nước đồng ý hạn chế

xuất khẩu của mình sang nước khác đối với một mặt hàng xác định, với một mức tối đa.

Các thoả thuận này là tự nguyện chỉ ở mức độ nước xuất khẩu muốn tránh một mối đe

doạ lớn hơn đối với ngoại thương của mình và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn.

Tuy nhiên, đây là biện pháp tạm thời và không có hiệu quả. Bởi vì biện pháp này có thể

giúp làm giảm lượng xuất khẩu của một nước nhưng lại bóp méo quá trình tự do ngoại

thương và dẫn đến việc phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia và quốc tế một cách

kém hiệu quả. Tại Nhật Bản, vào cuối những năm 50 đã phải thực hiện hạn chế xuất

khẩu tự nguyện đối với các sản phẩm dệt và một số mặt hàng sử dụng nhiều lao động.

Giấy phép nhập khẩu

Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào Nhật Bản không cần giấy phép của Bộ Công

Nghiệp và Ngoại thương. Nhưng các mặt hàng sau vẫn cần giấy phép nhập khẩu :

- Hàng hoá liệt kê trong thông báo nhập khẩu thực hiện quản lý bằng hạn ngạch.

- Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy định trong thông

báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu.

- Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt.

- Hàng hoá cần sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu và phải đáp ứng được các

quy định đặc biệt của chính phủ, như các loại vắcxin nghiên cứu.

1.1.1.3 Các biện pháp hành chính kỹ thuật.

Đây là nhóm các biện pháp gián tiếp ngăn cản và giám sát hàng nhập khẩu từ nước

ngoài vào thị trường Nhật Bản. Các biện pháp hành chính kỹ thuật rất phong phú và đa

dạng. Chúng tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tại Nhật

Bản, các biện pháp hành chính được áp dụng rât đa dạng và nó đã hình thành nên một

rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.

Trong quan hệ ngoại thương, giá cả thường rất quan trọng. Tuy nhiên, tại thị trường

Nhật Bản thì chất lượng của sản phẩm được đặt lên hàng đầu. Ngay cả đối với những

mặt hàng rẻ tiền, hạ giá thì người tiêu dùng Nhật Bản cũng rất quan tâm đến chất lượng

và độ an toàn của mặt hàng đó. Thực tế là là các tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn

của hàng hoá của Nhật Bản còn cao hơn và chặt chẽ hơn so với yêu cầu thông thường

và các tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy nên các sản phẩm của Nhật Bản thường có chất lượng

cao và dễ tràn ngập vào các thị truờng các nước khác. Các dấu chứng nhận chất lượng

mà Nhật Bản sử dụng có thể kể đến như :

- 5 -

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!