Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Biển Đông: Những vấn đề cần cập nhật trong nghiên cứu và giảng dạy về Địa lí tự nhiên
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 http://www.lrc-tnu.edu.vn
BIỂN ĐÔNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN CẬP NHẬT TRONG NGHIÊN CỨU
VÀ GIẢNG DẠY VỀ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM
Nguyễn Thị Hồng*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Địa lí tự nhiên Biển Đông cần đƣợc cập nhật trong nghiên cứu và giảng dạy về Địa lí tự nhiên Việt
Nam với một số nội dung quan trọng: Đặc điểm tổng quát và phân hóa vùng tự nhiên lãnh hải Biển
Đông; Tài nguyên thiên nhiên vị thế và các nguồn lợi Biển Đông; Ứng phó với biến đổi khí hậu và
thảm họa thiên tai từ biển; Nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng biển và sự cần thiết bảo vệ các vùng biển
nhạy cảm đặc biệt. Những vấn đề về địa lí tự nhiên Biển Đông nói trên, cùng với các vấn đề trong
Chiến lƣợc Biển Việt Nam, cần đƣợc tích hợp trong các chƣơng trình cũng nhƣ sách giáo khoa về
Địa lí tự nhiên Việt Nam trong nhà trƣờng phổ thông và đại học.
Từ khoá: Biển Đông, tài nguyên, ô nhiễm, nhận thức.
Từ xa xƣa, ông cha ta đã diễn giải cấu trúc
lãnh thổ Việt Nam là một đất nƣớc gồm: một
phần là đồng ruộng, ba phần là núi, bốn phần
là biển, (tam sơn, tứ hải nhất phần điền).
Phần miền núi và đồng bằng (sơn, điền) cộng
lại thành một nửa; một nửa còn lại là biển (tứ
hải); biển nƣớc ta là Biển Đông (hải đông hải
dã). Phần địa lí tự nhiên sơn - điền (phần lãnh
thổ) đƣợc các nhà địa lí nghiên cứu khá sâu
sắc; phần địa lí tự nhiên tứ hải (phần lãnh hải)
bƣớc đầu đƣợc quan tâm trong các công trình
nghiên cứu cấp nhà nƣớc cũng nhƣ các tác
phẩm địa lí tiêu biểu. Tuy nhiên, so với yêu
cầu mặt bằng nhận thức chung, phần địa lí tự
nhiên về Biển Đông vẫn còn là chỗ yếu trong
Địa lí tự nhiên Việt Nam. Vì vậy vấn đề làm
phong phú và sâu sắc hơn sự hiểu biết về địa
lí tự nhiên đất nƣớc bằng việc cập nhật kiến
thức mới về Biển Đông cho xứng với vị thế
của nó trong Chiến lƣợc Biển Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng trong giáo dục.
ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ PHÂN HÓA VÙNG TỰ
NHIÊN LÃNH HẢI BIỂN ĐÔNG
Là một bộ phận của Thái Bình Dƣơng, Biển
Đông, (tên gọi khác: Biển Đông Nam Á -
South - East Asia Sea, Biển Nam Trung Hoa
- South - Chine Sea), đƣợc phân cách với
Thái Bình Dƣơng và các biển khác bởi các
Tel: 0914 400809
đảo Đài Loan, Luxôn, Palaoan và Calimantan.
Diện tích 3.537 nghìn km2
, dung tích 3623
km3
, độ sâu trung bình 1024 m, nơi sâu nhất
5560 m. Vùng có độ sâu trên 2000 m chiếm
1/4 diện tích thuộc phần phía Đông của biển.
Thềm lục địa có độ sâu dƣới 200 m chiếm
trên 50% diện tích. Cấu tạo của đáy biển khá
phức tạp: vùng biển phía đông kinh tuyến
1100 Đ, nhìn chung là vùng biển sâu trên
4000 m, đáy biển có nhiều đảo ngầm, đảo nhỏ
và đảo san hô. Hai quần đảo Hoàng Sa và
Trƣờng Sa đều là những đảo san hô nằm
trong vùng biển này. Vùng biển phía tây kinh
tuyến nói trên, trái lại nằm trên một thềm lục
địa nông, thƣờng không sâu quá 100 m. Biển
Đông nối liền với biển Giava qua một eo biển
rộng là Calimata nằm giữa đảo Caliman-tan
và Bêlitung thuộc Inđônêxia. Tài nguyên của
Biển Đông rất đa dạng, gồm dầu khí, tài
nguyên sinh vật (thuỷ sản, rong biển).
Biển nằm trên một thềm lục địa ngầm; trong
những kỷ băng hà gần đây nƣớc biển đã hạ
thấp xuống hàng trăm mét, và Borneo từng là
một phần của lục địa Châu Á. Nhiều con sông
lớn chảy vào Biển Đông gồm các sông Châu
Giang, Mân Giang, sông Cửu Long (Phúc
Kiến), sông Hồng, sông Mê Kông, sông
Rajang, sông Pahang, và sông Pasig.
Phía đông bắc Biển Đông có quần đảo Đông
Sa, thuộc Trung Quốc (Pratas Islands). Phía