Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ảnh hưởng của thực trạng chính tả trên báo viết hiện nay đối với việc dạy chính tả trong nhà trường phổ thông.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
KHÓA LUÂN T ̣ ỐT NGHIÊP ĐẠI HỌC ̣
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA THỰC TRẠNG CHÍNH TẢ TRÊN BÁO
VIẾT HIỆN NAY ĐỐI VỚI VIỆC DẠY CHÍNH TẢ TRONG
NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Người hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Đăng Châu
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Bảo Trinh
Đà Nẵng, tháng 5/2013
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói: “ Ngôn ngữ là thứ của cải vô
cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng
nó, làm cho nó phát triển ngày một rộng khắp”. Quả thật, ngôn ngữ là tài sản vô
giá của mỗi quốc gia trên toàn thế giới. Nó là một tiêu chí vô cùng quan trọng
trong việc đánh giá sự phát triển văn hóa xã hội cũng như thể hiện bản sắc riêng
của mỗi dân tộc; Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chữ quốc ngữ ra
đời là bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của dân tộc. Nó góp phần tạo nên
trang sử hào hùng, giành độc lập cho đất nước, song hành nhịp bước trong từng
giai đoạn khôi phục và phát triển của dân tộc. Đó là điều mà lịch sử và lớp lớp
người dân Việt ta đều phải ghi nhận.
Tìm hiểu và thấy được vai trò cũng như giá trị của tiếng Việt ta cần có thái độ
đúng đắn trong việc học và sử dụng tiếng Việt. Thế hệ trẻ hiện nay với sự du nhập
của nhiều thứ tiếng khác nhau đã tỏ ra thành thạo trong việc học và nói tiếng nước
ngoài. Nhưng có bao lần họ nghĩ mình đã sử dụng thành thạo tiếng Việt chưa? Nói
ra có vẻ hơi nghịch lý nhưng việc nói và viết tiếng Việt đúng chuẩn thì không phải
ai cũng làm đươc cho dù đó là tiếng dân tộc, tiếng mẹ đẻ.
Đối với tiếng Việt thì nói thì phải biết phát âm cho đúng và viết phải viết
đúng chính tả. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi chỉ đề cập đến phạm
trù viết. Hiện nay trong hàng ngàn bài kiểm tra của học sinh thì việc tìm ra một bài
viết chữ đẹp, không mắc lỗi chính tả là một điều không dễ dàng. Khả năng vận
dụng tiếng mẹ đẻ của các em còn nhiều khiếm khuyết; thêm vào đó là sự thiếu nhất
quán trong thực hành chính tả của báo giới, là thiếu vắng luật sử dụng ngôn ngữ
quốc gia. Đó là một thực trạng đáng báo động. Vậy nguyên nhân là do đâu? Cơ
quan có thẩm quyền nào chịu trách nhiệm về vấn đề này ?
Nghiên cứu và tìm hiểu vấn nạn trên chúng tôi nhận thấy được rằng hiện nay
trên các phương tiện truyền thông mà cụ thể ở đây là báo viết thì tình trạng mâu
thuẫn về các quy tắc chính tả xuất hiện với tần số cao. Mỗi một tờ báo đều có
3
tuyên ngôn về quy tắc chính tả của riêng mình và cũng có khi họ tự mâu thuẫn với
chính họ. Trong khi đó trên các nước tiên tiến, mỗi năm đều tổ chức hội thảo về
chính tả để đề xuất và thống nhất các quy tắc sau đó đưa ra bộ luật về chuẩn chính
tả để ban hành, áp dụng rộng rãi trên khắp đất nước. Vậy thì tại sao ta không làm
được điều đó? Hằng ngày có hàng chục tờ báo được phát hành và “mỗi tờ một vẻ”
thì người đọc sẽ tiếp nhận ra sao? Những lỗi sai được truyền đi rộng rãi thì ai gánh
lấy trách nhiệm và phải chăng đó cũng là nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến vấn đề
chính tả trong nhà trường?
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin chỉ cần gõ google và tra cứu
các em đã có đủ thông tin trên các trang báo mạng khác nhau. Trong khi đó, chuẩn
chính tả trên các tờ báo lại không thống nhất, có khi còn mắc phải những lỗi rất cơ
bản. Các em đọc, đọc một lần, hai lần… rồi ăn sâu vào tiềm thức và thực hành
chính tả một cách tùy tiện theo thói quen. Nhận thấy sức ảnh hưởng lớn của thực
trạng lệch chuẩn chính tả trên báo viết hiện nay đối với việc dạy chính tả trong nhà
trường, chúng tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của thực trạng chính tả trên báo viết
hiện nay đối với việc dạy chính tả trong nhà trường Phổ thông” làm công trình
nghiên cứu với mong muốn góp phần làm sáng rõ thực trạng nói trên cũng như đề
xuất những giải pháp trong việc thống nhất chính tả, góp phần tích cực trong việc
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Khi nói đến thực trạng không thống nhất chính tả, thậm chí mắc lỗi của báo
viết thì có một số công trình nghiên cứu của các tác giả như sau:
Bài báo cáo “Thực trạng sử dụng dấu câu trên báo trực tuyến tiếng Việt và
một số đề xuất” của tác giả Lê Thị Thùy An, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường
ĐH KHXH&NV TP.HCM trong Hội thảo Khoa học Quốc gia “Xây dựng chuẩn
mực chính tả thống nhất trong nhà trường và trên các phương tiện truyền thông
đại chúng” đã khẳng định: “Hiện nay, chính tả tiếng Việt đang còn là vấn đề tranh
cãi và thiếu sự thống nhất cao độ” và “…việc sử dụng dấu câu trong diễn đạt còn
nhiều điều tồn tại, cần phải được xem xét và làm rõ. Nhiều trường hợp nhà báo
4
chủ quan đã sử dụng dấu câu rất không hợp lí, vừa làm giảm đi hiệu quả truyền
đạt của bài báo, lại gây cảm giác nặng nề, khó chịu cho người đọc”[25, tr.120].
Tác giả đã chứng minh quan điểm trên của mình bằng việc khảo sát cách dùng dấu
câu trên các trang báo trực tuyến để chỉ ra sự bất nhất cũng như những lỗi mà các
bài báo mắc phải. Qua đó, đưa ra những đề xuất tích cực để phần nào cải thiện tình
hình trên.
Hay báo cáo “Quy định chính tả của một số báo và việc áp dụng những quy định
đó vào thực tiễn báo chí” [26, tr.211] của hai tác giả Lê Thị Thùy An và Dương
Thị My Sa, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM trong
Hội thảo Khoa học Quốc gia “Xây dựng chuẩn mực chính tả thống nhất trong nhà
trường và trên các phương tiện truyền thông đại chúng” đã nêu ra được sự sai
lệch, thiếu thống nhất giữa những quy định các tờ báo đưa ra so với thực tiễn áp
dụng. Cùng quan điểm với hai tác giả trên, tại Hội thảo, Huỳnh Thị Hồng Hạnh đã
trình bày báo cáo “Quy định về cách viết hoa tên các cơ quan, tổ chức: thực trạng
và đề xuất” [27, tr.176]. Ngoài ra, còn có bài báo cáo của tác giả Trương Thị Mỹ
Hậu về “Một số lỗi thường gặp trên báo mạng” [28, tr.196], cũng đã gióng lên hồi
chuông cảnh báo về thực trạng thiếu thống nhất, thậm chí còn sai chính tả trên các
phương tiện truyền thông mà cụ thể ở đây là báo viết.
Riêng về vấn đề chính tả tiếng Việt của học sinh Phổ thông hiện nay cũng
như phương pháp rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho các em thì có một số nghiên
cứu của các tác giả như sau:
Theo nghiên cứu của tác giả Lê Văn Nựu trong “Lược khảo Việt ngữ” đă
viết: “…trong mỗi giờ tập đọc, các học sinh đều luyện tập các phát âm cho đúng
rồi dần dần chúng sẽ sửa chữa được những chỗ sai lầm và khi đă phát âm được
đúng mỗi vần, mỗi tiếng th́ì viết ra tự nhiên hợp cách không cọ̀ n khó khăn, ngần
ngại gì nữa” [5, tr.63]
Tác giả Phan Ngọc trong “Chữa lỗi chính tả cho học sinh” cũng khẳng định:
“Cách chữa lỗi thường nói đến nhất là tập phát âm cho đúng” [4, tr.398]. Tuy
nhiên, ông cho rằng cách chữa lỗi này là “đặt cái cày trước con trâu”. Bởi vì học
5
sinh muốn phát âm đúng thì trước hết phải biết chính tả, phải nhớ những chữ mà
ḿ
ình phát âm sai. Như vậy, học sinh cần phải học cách viết chính tả đúng để từ đó
đi đến cách phát âm chuẩn.
Năm 1994, Lê Trung Hoa đă biên soạn cuốn “Mẹo luật chính tả” [2, tr.159].
Trong cuốn này, tác giả đă tổng hợp những thành tựu về mẹo luật chính tả trước
đó, hoàn thiện và sáng tạo thêm, đưa vào công trình 36 mẹo luật chính tả. Trong
các giáo trình Tiếng Việt thực hành cũng có các mẹo luật về chính tả . Có thể kể
đến các tác giả như: Hà Thúc Hoan [3, tr.12-13], Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn
Văn Hiệp trong “Tiếng Việt thực hành” [8, tr.243]…
Có thể thấy rằng, các bài nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực trạng
“rối” chính tả trên báo viết hiện nay (với việc khảo sát chỉ từ một đến hai tiêu chí)
hay đề cập đến thực trạng lỗi chính tả của học sinh phổ thông cũng như hướng đến
những cách hạn chế tình trạng đó. Điều đó chứng tỏ rằng đây là vấn đề dược dư
luận xã hội quan tâm. Tuy nhiên dư luận ấy mới chỉ là sự phát hiện thực tế đơn lẻ
chứ chưa thật sự có công trình nghiên cứu nào theo hướng khảo sát tất cả các tiêu
chí (hình thức từ, dấu câu, viết hoa, viết tắt và phiên âm tiếng nước ngoài) cũng
như chưa phản ánh sự ảnh hưởng của thực trạng bất nhất về chính tả trên báo viết
đối với thói quen chính tả của học sinh Phổ thông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: thực trạng chính tả trên báo viết cũng như
mối quan hệ mật thiết của thực trạng trên với việc dạy chính tả trong nhà trường
nhằm tìm ra hướng thống nhất các quy tắc chính tả.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài chúng tôi tập trung vào lĩnh vực báo viết với một số
tờ báo tiêu biểu như: Tuổi trẻ, Thanh niên, Người Lao động và các trang báo
mạng: Vnexpress.com, Vietnamnet.vn, 24h.com.vn, vnthuquan.net, dantri.com.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát:
6
Tiến hành thu thập các số ngẫu nhiên của các tờ báo in cũng như các trang
báo điện tử. Sau đó đọc và nêu lên thực trạng chính tả trên báo viết hiện nay.
- Phương pháp thống kê ngôn ngữ học:
Sau khi có các tư liệu nghiên cứu đề tài áp dụng phương pháp thống kê ngôn
ngữ học để tìm ra được những quy luật kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ, những
mối quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ trong cùng một cấp độ với nhau. Đồng thời
có được cái nhìn khách quan về thực trạng chính tả trên báo in viết.Có thể nói rằng
chỉ có trên cơ sở thống kê mới có thể hiểu hết được một cách cụ thể vấn đề cần
khảo sát như thế nào. Các đơn vị trong hệ thống ngôn ngữ thể hiện rất khác nhau
trong sự hoạt động ngôn ngữ. Và cùng một đơn vị nhưng ở các phong cách cụ thể,
ở các địa phương cụ thể và ở các cá nhân cụ thể cũng khác nhau. Vì vậy dùng
phương pháp thống kê để nghiên cứu ngôn ngữ cũng như hoạt động ngôn ngữ.
- Phương pháp miêu tả:
Phương pháp này nhằm phân tích, đánh giá các tư liệu đã thu thập được về
hiện tượng nghiên cứu. Trong phương pháp này chúng tôi vận dụng các thao tác:
phân loại. tổng hợp, miêu tả, so sánh đối chiếu…để thấy được thực trạng khách
quan về thực trạng chính tả hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng mà
cụ thể là báo viết.
- Phương pháp tổng hợp, đánh giá:
Phương pháp này nhằm tổng hợp các kết quả thu nhận được từ thực tế khảo
sát từ đó đưa ra những ý kiến đánh giá, nhận định khách quan nhất về vấn đề
nghiên cứu. Qua đó, tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai trên ba chương:
Chương Một: Những cơ sở lý luận chung của đề tài
Chương Hai: Khảo sát thực trạng chính tả trên báo viết hiện nay
Chương Ba:Từ chính tả trên báo viết đến chính tả của học sinh ở trường Phổ
thông
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA
ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề
1.1.1. Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt và các nguyên tắc chính tả tiếng Việt
1.1.1.1. Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng bậc nhất của con người. Nó tồn
tại ở hai dạng âm thanh và chữ viết. Chữ viết về bản chất là dạng kí hiệu âm thanh
của ngôn ngữ. Bởi vậy khi nói đến ngôn ngữ ta nói đến hình thức âm thanh của
ngôn ngữ hay gọi theo các nhà ngôn ngữ học là ngữ âm. Hiểu và nắm rõ ngữ âm
tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng cho tiếng
Việt. Vì sao vậy? Khi nắm được hệ thống ngữ âm tiếng Việt ta sẽ biết nói và viết
đúng tiếng Việt. Nghe thì thật đơn giản nhưng không phải bất cứ công dân Việt
Nam nào cũng có thể sử dụng tiếng Việt chính xác, thành thạo cả khi nói lẫn khi
viết. Ngoài ra, hiểu và nắm rõ ngữ âm tiếng Việt, chúng ta còn có thể biết được
những cái cần dạy khi dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và rất nhiều công việc
khác.
Trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt chúng ta cần biết đến đầu tiên chính là âm
tiết. Tiếng Việt là ngôn ngữ phân tiết tính: các âm tiết được tách bạch rõ ràng trong
dòng lời nói. Vậy âm tiết là gì? Âm tiết là chuỗi lời nói của con người phát ra
thành những mạch khác nhau, những khúc đoạn từ lớn đến nhỏ khác nhau. Âm tiết
là đơn vị phát âm nhỏ nhất, là “đơn vị ngữ âm tự nhiên mà bất cứ người bản ngữ
nào cũng có thể nhận ra” [8, tr.38] - đơn vị ngữ âm dễ nhận diện nhất. Ví dụ: “Hồ
Chí Minh muôn năm” (5 âm tiết).
Có thể nói rằng âm tiết là sự biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất những đặc
điểm tiếng Việt về mặt ngữ âm.
Về đặc điểm của âm tiết, âm tiết tiếng Việt mang tính đơn lập được thể hiện ở
ranh giới cố định của âm tiết và ranh giới âm tiết trùng với ranh giới hình vị. Ranh
8
giới âm tiết tiếng Việt được xác định một cách dứt khoát trong chuỗi lời nói. Trong
tiếng Việt không có trường hợp một bộ phận của âm tiết được tách ra để kết hợp
với âm tiết tiếp theo như trường hợp đọc nối của ngôn ngữ biến hình của tiếng
Anh. Cũng chính từ đó mà cũng không có hiện tượng phát âm một âm tiết thành
hai âm tiết. Ngoài ra, trong tiếng Việt ranh giới âm tiết trùng với ranh giới hình vị
có nghĩa là một phát ngôn có bao nhiêu âm tiết thì có bấy nhiêu hình vị. Không chỉ
mang tính đơn lập âm tiết tiếng Việt còn là điểm xuất phát để phân tích âm vị học.
Trong tiếng Việt như đã nói âm tiết thường trùng với hình vị cho nên khi xuất phát
từ hình vị để đi tới âm vị thì cũng là xuất phát từ âm tiết.
Âm tiết không phải là một khối đông đặc mà có thể phân xuất thành các yếu
tố nhỏ hơn. Cụ thể được chia thành năm thành tố và mỗi thành tố có một chức
năng riêng: thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Đây cũng chính là
năm thành phần cấu tạo nên âm tiết. Các thành tố này sắp xếp có thứ lớp mà ta có
thể phân thành từng bậc. Bậc thứ nhất bao gồm: âm đầu, phần vần và thanh điệu;
bậc thứ hai: âm đệm, âm chính và âm cuối.
Cấu trúc 2 bậc của âm tiết
Trong chuỗi lời nói của con người không chỉ phát ra thành những mạch khác
nhau mà còn phân tách ra được những khúc đoạn âm thanh nhỏ nhất có chức năng
phân biệt ý nghĩa và nhận diện từ, đó chính là âm vị. Và từ mô hình cấu trúc âm
tiết tiếng Việt ở trên cũng như khái niệm về âm vị chúng ta có thể lần lượt tìm hiểu
các nguyên tắc ghi thành phần âm vị trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt.
a. Âm đầu
9
Chức năng của âm đầu là mở đầu âm tiết và phân biệt các cách mở đầu khác
nhau của âm tiết. Căn cứ vào các âm vị phụ âm được sử dụng và phân biệt trên văn
viết thì số lượng phụ âm đầu tiếng Việt là 22 phụ âm.
Tiêu chí để phân biệt 22 phụ âm đầu tiếng Việt là ở phương thức phát âm và
bộ máy cấu âm. Về phương thức phát âm có ba trường hợp: phương thức tắc (phụ
âm tắc, phụ âm mũi, phụ âm bật hơi), phương thức xát (phụ âm xát, phụ âm bên),
phụ âm rung. Về bộ phận cấu âm có các trường hợp: phụ âm môi, phụ âm đầu lưỡi,
phụ âm mặt lưỡi, phụ âm cuối lưỡi, phụ âm họng.
Bảng kê phụ âm đầu
Điểm cấu âm
Phương thức
phát âm
Môi Đầu lưỡi
Mặt
lưỡi
Cuối
lưỡi
Thanh
hầu
Môi
Răn
g
Bẹt Quặt
Tắc
Bật hơi t’
Ồn Không
bật hơi
Vô
thanh
p f t ţ c k
Hữu
thanh
b v d
Vang (mũi) m n ŋ
Xát
Ồn Vô thanh s ş x h
Hữu thanh z γ
Vang (bên) l
Chữ viết tiếng Việt là loại chữ ghi âm bằng chữ cái. Mỗi âm vị âm đầu đều
được thể hiện bằng một con chữ, kí hiệu âm vị. Có âm vị được ghi bằng một chữ
duy nhất trên chữ viết, lại có vài âm vị được ghi bằng hai ba hình thức chữ viết
khác nhau.
1. /b/ b
2. /m/ m