Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ảnh hưởng của các mức năng lượng trao đổi và một số acid amin thiết yếu lên sinh trưởng và chất lượng thân thịt của gà H’mông
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
LÂM THÁI HÙNG
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC NĂNG LƯỢNG
TRAO ĐỔI VÀ MỘT SỐ ACID AMIN THIẾT
YẾU LÊN SINH TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG
THÂN THỊT CỦA GÀ H’MÔNG
LUẬN ÁN TIẾN SỸ
NGÀNH CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 62-62-01-05
2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
LÂM THÁI HÙNG
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC NĂNG LƯỢNG
TRAO ĐỔI VÀ MỘT SỐ ACID AMIN THIẾT
YẾU LÊN SINH TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG
THÂN THỊT CỦA GÀ H’MÔNG
LUẬN ÁN TIẾN SỸ
NGÀNH CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 62-62-01-05
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGS. TS. VÕ VĂN SƠN
2014
1
Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của luận án
Gà là đối tượng không thể tách rời ngành chăn nuôi tại Việt Nam, trong đó
gà nuôi thả vườn luôn giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế của hộ nghèo
(Đặng Thị Hạnh, 1999) [65] vì chi phí đầu tư cho hệ thống chăn nuôi này tương
đối thấp (Okitoi et al., 2007) [173]. Trong các giống gà nuôi thả vườn của Việt
Nam, gà H’mông thuộc nhóm gà có da, thịt và xương đen (Vũ Quang Ninh, 2001
[233]; Đào Lệ Hằng, 2001 [64]; Ngô Kim Cúc và ctv., 2002 [157]; Dương Thị
Anh Đào và ctv., 2011 [64]) và thịt gà có giá trị dinh dưỡng cao và ngọt nhờ hàm
lượng axit amin cao (Lương Thị Hồng và ctv., 2007 [129]). Gà H’mông được
nuôi ở ĐBSCL từ năm 2007 trên 6.000 con tại tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long (Hồ
Lâm, 2011) [90], chủ yếu bằng phương thức chăn thả hoặc bán chăn thả. Hơn nữa
thịt gà H’mông được đánh giá là ngon và ngọt (Trần Trọng Trung, 2011 [226];
Hồ Lâm, 2011 [90]).
Năng lượng trao đổi và axit amin trong khẩu phần ảnh hưởng chính đến sinh
trưởng và phát triển của gà. Đồng thời việc bổ sung protein vào khẩu phần mang
hiệu quả là nhờ sự cân đối các axit amin. Cơ thể chỉ tổng hợp protein từ mẫu axit
amin cân đối, bổ sung axit amin giới hạn để tạo sự cân đối (Lê Đức Ngoan và ctv,
2004) [119]. Trong khi, axit amin là đơn vị nhỏ nhất tổng hợp nên protein (Fuller,
2004) [75], nên nó là thành phần ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà. Ngày nay,
bảng axit amin lý tưởng theo lysine được sử dụng rộng rãi trong công thức khẩu
phần của gà (Baker, 1997 [16]; Mack et al., 1999 [131]; Baker et al., 2002 [18]).
Khi giảm protein thô và bổ sung axit amin vào khẩu phần đã hỗ trợ tốt cho tiêu
thụ thức ăn và tăng trưởng của gà thịt (Yamazaki et al., 1998 [244]; Aletor et al.,
2000 [7]). Hơn nữa, năng lượng trao đổi và axit amin khác nhau đã ảnh hưởng
đến sinh trưởng và chất lượng thịt (Araújo et al., 2005 [11]; Corzo et al., 2005
[42]). Do đó năng lượng trao đổi và axit amin liên quan không chỉ đến từng giai
đoạn phát triển và sản xuất của gà mà còn ảnh hưởng đến chất lượng thịt.
Chi phí thức ăn nuôi gà chiếm 60 - 90 % tổng chi phí sản xuất (Gunaratne et
al., 1992) [78], nên lợi nhuận thu được phụ thuộc lớn vào chi phí thức ăn. Hơn
nữa, các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi đã nhập khẩu trên 3,7 triệu tấn
nguyên liệu/năm (Mai Hương, 2013) [133]. Do đó để tăng lợi nhuận cho người
nuôi thì nên tận dụng thức ăn có sẵn của địa phương và kết hợp với chăn thả.
2
Ngoài ra, nghiên cứu để đánh giá ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và axit
amin trong khẩu phần lên sức sản xuất và chất lượng thịt gà H’mông chưa có.
Hơn nữa, kết quả thực hiện đề tài này sẽ tạo thêm những lựa chọn mới về giống
và phương thức nuôi gà thả vườn tại ĐBSCL.
1.2 Mục tiêu của luận án
Xây dựng khẩu phần ăn thích hợp dựa trên nhu cầu năng lượng trao đổi và
lysine và xác định phương thức nuôi thích hợp trong từng mùa cho gà H’mông
nuôi ở ĐBSCL.
Mục tiêu cụ thể:
Xác định ảnh hưởng của các mức năng lượng trao đổi và lysine lên sức sản
xuất thịt của gà H’mông qua từng giai đoạn sinh trưởng.
Xác định ảnh hưởng của các khẩu phần lên sức sản xuất và chất lượng thịt
gà H’mông.
Xác định ảnh hưởng của phương thức và mùa vụ nuôi lên sức sản xuất và
chất lượng thịt gà H’mông.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu gà H’mông được nuôi thịt tại tỉnh Trà Vinh với phạm vi gồm:
- Nghiên cứu ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và lysine lên sức sản xuất
của gà H’mông nuôi thịt từ 0 đến 14 tuần tuổi;
- Nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu phần khác nhau lên sức sản xuất và chất
lượng thân thịt của gà H’mông từ 0 đến 14 tuần tuổi;
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức nuôi và mùa vụ lên sức sản xuất và
chất lượng thân thịt của gà H’mông từ 5 đến 9 tuần tuổi.
1.4Những đóng góp mới của luận án
1. Mức năng lượng trao đổi và lysine tốt nhất trong khẩu phần để nuôi gà
H’mông thịt giai đoạn 0-4; 5-9; 10-14 lần lượt là 3.000 và 1,1%; 3.000 và 1,0%;
3.100 kcal/kg thức ăn và 0,85%.
2. Xác định được ảnh hưởng của phương thức và mùa vụ nuôi gà H’mông
cho sức sản xuất và chất lượng thịt tại ĐBSCL.
3
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Vị trí địa lý, khí hậu và đất đai của tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh là tỉnh nằm trong khu vực Tây Nam bộ của Việt Nam, phía Đông
giáp biển đông, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Sóc Trăng,
phía Bắc giáp tỉnh Bến Tre (Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh, 2013) [39]. Trà
Vinh thuộc nữa Bán cầu Bắc, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau
và mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9 (Wikipedia, 2013a) [242].
Diện tích tự nhiên là 2.341 km2
, được bao bọc bởi sông Tiền và sông Hậu,
có 65 km bờ biển. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu mát mẻ quanh
năm, nhiệt độ trung bình 26-270
C, độ ẩm trung bình 83-85%, lượng mưa trung
bình 1.500 mm, ít bị ảnh hưởng bởi bão lũ. Diện tích đất nông nghiệp là 185 ngàn
ha, đất ở nông thôn là 3.845 ha, đất chưa sử dụng là 900 ha. Đất cát giồng toàn
tỉnh chiếm 6,62% (Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh, 2013) [39].
Hình 2.1: Bản đồ địa lý hành chính của tỉnh Trà Vinh
Như vậy, với diện tích đất giồng cát chiếm 6,62% và đất nông nghiệp chiếm
tỉ lệ lớn nên việc phát triển gà thả vườn theo phương thức chăn thả hoặc bán chăn
thả trên địa bàn tỉnh là hoàn toàn có thể.
2.2 Tình hình chăn nuôi gà thả vườn ở ĐBSCL
Nuôi gà chăn thả phát triển khắp mọi vùng nông thôn và đàn gà thả vườn
chiếm 65-70% tổng đàn gà cả nước (Lê Hồng Mận, 2002) [120]. Giống gà thả
vườn được nuôi bằng 3 phương thức như nuôi thả hoàn toàn, nuôi bán chăn thả và
nuôi nhốt hoàn toàn (Dương Thanh Liêm, 2003) [62]. Kết quả phân tích của
Nguyễn Quốc Nghi và ctv. (2011) [162] cho thấy nuôi gà thả vườn bán công
4
nghiệp ở ĐBSCL mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho người nuôi và cần mở
rộng qui mô sản xuất để tăng thu nhập cho nông hộ.
Giống gà thả vườn được nuôi phổ biến ở ĐBSCL bao gồm gà Tàu Vàng, gà
Nòi, gà Ác, gà Tre, gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng…, trong đó giống gà Nòi
được người dân nuôi nhiều nhất (Nguyễn Văn Quyên, 2008c) [170]. Những hộ
nuôi bán chăn thả với qui mô nhỏ đã chọn mua con giống tại địa phương, còn hộ
nuôi với qui mô lớn thì chọn con giống tại các Trung tâm sản xuất con giống
(Nguyễn Quốc Nghi và ctv., 2011) [162]. Một trong các giống gà bản địa được
chọn nuôi theo phương thức thả vườn ở các địa phương miền Bắc là gà H'mông.
Gà H’mông chứa gen quý và thịt có giá trị dinh dưỡng cao và ngọt nhờ hàm
lượng axit amin cao (Lương Thị Hồng và ctv., 2007) [129].
Năm 2000, Chu Khôi (2010) [36] cho biết kinh phí của dự án "Bảo tồn các
giống vật nuôi có vốn gen quý hiếm tại Việt Nam", TS. Võ Văn Sự đã chủ trì đề
tài và Viện Chăn nuôi đã nuôi thích nghi thành công giống gà H’mông tại Hà
Nội. Năm 2003 Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn đã giao Viện Chăn nuôi
thực hiện dự án “Hoàn thiện quy trình công nghệ chăn nuôi vịt Bầu Quỳ và gà
H’mông”, sau đó giống gà H’mông được liệt vào danh sách nuôi giữ giống gốc.
Xã Cò Nòi (huyện Hát Lót - Sơn La) đã nhận từ Viện Chăn nuôi 1.000 con giống
gà H‘mông, đưa vào chăn nuôi theo hướng hàng hoá. Công ty Giống vật nuôi quý
hiếm Hà Khánh (thôn Thái Thông, xã Vĩnh Thái, thành phố Nha Trang) đang liên
kết với nông dân ở Nha Trang, chăn nuôi bao tiêu sản phẩm giống gà H’mông,
với quy mô đàn hiện tại 70.000 con. Công ty TNHH Lạc Hoà (xã Tiến Xuân,
Lương Sơn, Hoà Bình) hiện liên kết với 20 hộ nông dân nuôi gà H'mông, quy mô
đàn 30 ngàn con. Mỗi hộ nông dân chăn nuôi gia công cho Công ty 1.000 - 2.000
con. Tại ĐBSCL, gà H’mông được nuôi từ năm 2010 tại tỉnh Tiền Giang và Vĩnh
Long, gà dễ nuôi và tỉ lệ hao hụt thấp (Trần Trọng Trung, 2011) [226] và sau đó
lan dần sang nhiều tỉnh khác. Như vậy, gà H’mông hiện nay được nuôi rộng rãi từ
Bắc vào Nam.
Thức ăn được sử dụng nuôi gà thả vườn tại ĐBSCL có 3 nguồn như thức ăn
nguyên liệu của địa phương, thức ăn công nghiệp và thức ăn có sẵn trong vườn.
Thức ăn có sẵn trong vườn gồm các loại hạt, các loại cỏ tươi, các loại sâu bọ và
côn trùng (Nguyễn Hữu Tỉnh, 1999) [160]. Tấm gạo được nông hộ sử dụng để
nuôi gà Nòi con và lúa nguyên hạt được dùng để nuôi gà giò, gà trưởng thành và
gà sinh sản (Nguyễn Văn Quyên, 2008c) [170]. Kết quả nghiên cứu của Đỗ Võ
5
Anh Khoa và Nguyễn Minh Thông (2012) [66] cho thấy hầu hết thức ăn công
nghiệp đang có ngoài thị trường đều đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho gà Tàu
Vàng giai đoạn úm, tỉ lệ nuôi sống của gà 1-4 tuần tuổi với các loại thức ăn công
nghiệp không khác biệt và đạt tỉ lệ 97,92%.
Tỉ lệ nhiễm bệnh trên gà nuôi thả hoàn toàn là 75%, cao hơn gà nuôi bán
chăn thả 69,23% và nuôi nhốt hoàn toàn 36,57%. Nguyên nhân gà nuôi thả hoàn
toàn mắc bệnh cao là do gà được thả để tự kiếm thức ăn nên nguy cơ nhiễm mầm
bệnh từ môi trường bên ngoài cao (Hồ Thị Việt Thu, 2012) [91]. Một trong những
loại bệnh nguy hiểm là bệnh Newcastle, bệnh này được lưu hành từ lâu và suốt từ
Bắc đến Nam (Nguyễn Vĩnh Phước và ctv., 1978) [172]. Một số nghiên cứu ở
ĐBSCL cũng cho thấy tỉ lệ mắc bệnh Newcastle ở những đàn gà không được tiêm
phòng là rất cao: 58% ở An Giang (Mai Hoàng Việt, 1998) [132] và 47,4% ở
Đồng Tháp (Dương Nghĩa Quốc, 2007) [60].
Gà được nuôi thả vườn chiếm khoảng 70% trong ngành chăn nuôi gà và nó
đóng góp lớn vào phát triển kinh tế của đất nước. Hơn nữa, gà thả vườn của Việt
Nam có nguồn gen đa dạng và thịt gà thả vườn đáp ứng được thị hiếu của người
tiêu dùng và phù hợp với ẩm thực của người Việt. Trong khi chi phí thức ăn
chiếm 60-90% tổng chi phí sản xuất gà thả vườn (Gunaratne et al., 1992) [78]. Vì
vậy để nâng cao hiệu quả nuôi gà thả vườn tại ĐBSCL cần phải giảm chi phí thức
ăn bằng nhiều cách khác nhau như: (1) Tận dụng thức ăn có sẵn trong vườn như
côn trùng, các loại hạt và cây cỏ. Đồng thời thả gà với mật độ thích hợp để đảm
bảo nguồn thức ăn có sẵn trong vườn có thể tái sinh. Tăng cường trồng cây ăn trái
để tạo bóng mát cho gà và trồng thêm rau và cỏ làm thức ăn xanh. Hơn nữa, tạo
hệ thực vật phong phú sẽ tạo điều kiện tốt cho côn trùng và các động vật khác
phát triển. (2) Bổ sung axit amin tổng hợp vào khẩu phần từ các nguồn thức ăn có
sẵn của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng protein thô của khẩu phần,
qua đó nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn của gà và giảm chi phí.
2.3 Đặc điểm và khả năng sản xuất của gà H’mông
Gà H’mông thuộc giống gà thả vườn nội địa, có nguồn gốc ở vùng núi phía
Bắc, được nuôi theo phương thức truyền thống và chiếm tỉ lệ 13-14% trong cơ
cấu đàn gà tại các huyện vùng núi của tỉnh Hà Giang (Trần Thanh Vân và ctv.,
2006) [222]. Gà thuộc nhóm gà da, thịt và xương đen (Vũ Quang Ninh, 2001
[233]; Đào Lệ Hằng, 2001 [64]; Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011 [63]). Hơn
nữa, thịt gà H’mông có giá trị dinh dưỡng cao và ngọt nhờ hàm lượng axit amin
6
cao (Lương Thị Hồng và ctv., 2007) [129]. Bên cạnh đó, gà H’mông còn chứa
gen quý của giống gà bản địa và hiện nay được Viện Chăn nuôi nuôi giữ quỹ gen
và sản xuất giống đưa xuống vùng đồng bằng nuôi tập trung để cung cấp thực
phẩm cho con người.
Gà H’mông mới nở có 4 màu lông chính là đen tuyền, tro, vàng rơm và
trắng (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011) [63]. Lúc trưởng thành gà có màu sắc
đa dạng, trong đó màu lông xám chiếm tỉ lệ 34,1%, màu đen 16,6% và màu vàng
rơm 3,4%, khối lượng cơ thể lúc 12 tuần tuổi là 942 g/con và lúc 24 tuần đạt
1.820 g/con trống và 1.400 g/con mái (Trần Thanh Vân và ctv., 2006) [222]. Theo
Dương Thị Anh Đào và ctv. (2011) [63] cho biết gà trưởng thành khi nuôi trên 12
tháng thì con trống có tầm vóc cao to, dáng hùng dũng, nhanh nhẹn và khối lượng
có thể đạt trên 3 kg, còn gà mái có tầm vóc trung bình, khối lượng đạt 2,5-2,6 kg;
100% gà có mào cờ, màu đen hoặc đỏ thẫm; chân đen chiếm trên 90%, chân vàng
chiếm 5-10%; chân có 4 ngón chiếm 98%, một số ít có 5 ngón, chân có lông
chiếm 5-10%; bộ lông dầy, mượt, màu sắc lông đa dạng, đuôi dài và vểnh.
Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng cơ thể là 3,3 kg, tỉ lệ nuôi sống
trên 92%, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu của Việt Nam và tuổi đẻ trứng đầu
tiên khoảng 135-140 ngày (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011) [63]. Gà H'mông
lông đen nuôi nhốt 3 tuần đầu sau đó nuôi thả cho thấy gà thích nghi với điều
kiện nuôi bán chăn thả tại nông hộ, sau 12 tuần tuổi tỉ lệ nuôi sống đạt 85,84%,
đặc tính sinh dục thứ cấp hoạt động sớm, khối lượng cơ thể đạt 1.206 g và tiêu
tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cơ thể là 3,54 kg (Trần Thanh Vân, 2005) [221].
Gà H’mông rất háu ăn, bản tính chăm chỉ và chịu khó bới tìm thức ăn; khi
ngủ gà rụt cổ, đầu chúi xuống, bụng ép xuống nền và 2 cánh khép; hiếu động và
nhạy cảm, đặc biệt nhạy cảm với tín hiệu âm thanh và màu sắc, gà hung dữ và
hiếu chiến (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011 [63]; Đào Lệ Hằng, 2001 [64]).
Hành vi tranh giành con mái, ghẹ mái, cường độ hoạt động sinh dục và đẻ trứng
diễn ra vào các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng biểu hiện đòi ấp của gà
H’mông không cao (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011) [63].
Gà H’mông được nuôi ở miền Nam từ những năm 2007 để lấy thịt cung cấp
cho con người. Đây là giống gà thích nghi lâu đời tại vùng núi cao, nhưng được
Viện Chăn nuôi Quốc gia đánh giá là có khả năng thích nghi tốt tại vùng Đồng
bằng phía Bắc và phát triển được ở các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và axit amin
7
lên khả năng sinh trưởng và sản xuất của gà H’mông và việc đánh giá khả năng
sinh trưởng và chất lượng thịt gà H’mông với các phương thức nuôi và mùa vụ tại
vùng ĐBSCL còn hạn chế. Hơn nữa, năng lượng trao đổi và hàm lượng một số
axit amin thiết yếu trong khẩu phần đã được đánh giá là ảnh hưởng đến khả năng
sinh trưởng và chất lượng thân thịt của giống gà công nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu
này nhằm làm rõ hơn sự ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và một số axit amin
thiết yếu khác nhau trong khẩu phần lên khả năng sinh trưởng và chất lượng thân
thịt của gà H’mông.
2.4 Ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và axit amin khẩu phần lên
sinh trưởng và chất lượng thịt gà
2.4.1 Ảnh hưởng của năng lượng khẩu phần lên tiêu thụ thức ăn của gà
Năng lượng cần thiết cho các hoạt động sống của cơ thể gà bao gồm năng
lượng phục vụ cho các hoạt động tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp, hoạt động sinh sản,
bài tiết và quá trình trao đổi chất. Cơ thể gà cần năng lượng từ protein, lipid và
carbohydrate trong thức ăn để duy trì sự sống và tích lũy lại trong cơ thể, trong đó
carbohydrate cung cấp năng lượng chiếm tỉ lệ 40-60% (Võ Bá Thọ, 1996) [231].
Khi xây dựng khẩu phần cho gà thì mức năng lượng trong khẩu phần là yếu
tố được quan tâm đầu tiên, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiêu thụ thức ăn. Hơn
nữa, cũng phải chú ý đến tỉ lệ giữa năng lượng và protein hoặc tỉ lệ giữa năng
lượng và axit amin. Theo Dương Thanh Liêm (2003) [62] cho biết việc tổ hợp
khẩu phần thức ăn cho gà nếu thừa protein hoặc mất cân đối axit amin đều dẫn
đến sự khai thác năng lượng trong thức ăn không hiệu quả. Ngoài ra, việc xác
định mức năng lượng trao đổi tối thiểu trong khẩu phần thức ăn của gà cũng được
căn cứ vào tốc độ sinh trưởng của chúng và được trình bày ở Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Nhu cầu năng lượng trao đổi của gà theo tốc độ sinh trưởng
Tốc độ sinh trưởng Mức năng lượng trao đổi tối thiểu, kcal/kg thức ăn
Năng lượng trao đổi Năng lượng tiêu hóa
Mức cao 3.000 3.200
Mức trung bình 2.750-3.000 2.970-3.200
Mức thấp 2.750 2.970
Để năng suất gà đạt tối ưu trên lượng thức ăn được tiêu thụ, thì nhu cầu
năng lượng trao đổi cho gà thịt công nghiệp ở các giai đoạn theo tiêu chuẩn NRC
8
(1984) [154] là 3.011 kcal/kg thức ăn. Tuy nhiên, đối với gà Nòi nuôi thịt ở các
giai đoạn tuổi thì nhu cầu năng lượng trao đổi cho tăng trọng tối ưu là 2.900
kcal/kg thức ăn (Nguyễn Văn Quyên và Võ Văn Sơn, 2008a [168]; 2008b [169]).
Lượng ăn vào của gà tương quan nghịch với mức năng lượng trao đổi khẩu
phần, chẳng hạn gà sẽ tiêu thụ nhiều thức ăn hơn với khẩu phần thấp năng lượng,
ngược lại gà tiêu thụ ít thức ăn hơn với khẩu phần cao năng lượng (Summers,
2000) [212]. Kết quả nghiên cứu của Brue and Latshaw (1985) [28] cũng cho
thấy gà giò nuôi thịt tiêu thụ nhiều năng lượng hơn khi ăn khẩu phần năng lượng
cao so với gà được nuôi bằng khẩu phần năng lượng từ thấp tới vừa. Bên cạnh đó,
gà có thể tự điều chỉnh năng lượng ăn vào nhưng không chính xác, nên khi ăn
khẩu phần cao năng lượng gà sẽ tích lũy mỡ trong cơ thể, từ đó lượng ăn vào
giảm dẫn đến thiếu dưỡng chất và giảm tăng trọng (NRC, 1994) [155]. Theo Bùi
Đức Lũng và Lê Hồng Mận (2001) [30] cho biết năng lượng không bị bài thải ra
ngoài khi lượng tiêu thụ của gà dư thừa mà năng lượng được tích lũy vào cơ thể.
Tuy nhiên gà thịt điều hòa lượng ăn vào chính xác hơn khi được nuôi bằng khẩu
phần năng lượng thấp (Latshaw et al., 1990) [117].
Khẩu phần của gà nuôi thịt chăn thả vườn theo khuyến cáo của Trần Công
Xuân và ctv (1999) [220] thì mức năng lượng trao đổi là 3.100 kcal/kg thức ăn đã
cho năng suất tốt nhất. Đồng thời, tác giả Nguyễn Bá Thuyên (1998) [158] đề
nghị sử dụng khẩu phần có hàm lượng dinh dưỡng cho gà Ta Vàng nuôi ở thành
phố Hồ Chí Minh với năng lượng trao đổi là 3.000 kcal/kg thức ăn. Do đó, việc
nghiên cứu mức năng lượng trao đổi trong khẩu phần của gà H’mông nuôi thịt từ
3.000 kcal/kg thức ăn trở lên là điều cần thiết.
2.4.2 Ảnh hưởng của axit amin thiết yếu lên sinh trưởng và chất lượng
thịt gà
2.4.2.1 Axit amin thiết yếu
Axit amin là acid hữu cơ, đơn vị nhỏ nhất để tổng hợp nên protein và được
cấu tạo bởi carbon, hydro, oxy, nitơ, một số axit amin còn chứa lưu huỳnh và
selen (Fuller, 2004) [75]. Có 20 loại axit amin tham gia vào quá trình sinh tổng
hợp protein trong cơ thể gà và về chức năng sinh lý thì tất cả đều quan trọng. Tuy
nhiên, các loại axit amin này được chia thành 2 nhóm đó là axit amin thiết yếu và
axit amin không thiết yếu. Axit amin thiết yếu là các axit amin phải được cung
cấp từ thức ăn, còn axit amin không thiết yếu là axit amin mà cơ thể có thể tổng
9
hợp từ các axit amin khác (D’Mello, 2003a) [56]. Ngoài ra, các axit amin thiết
yếu có trong thức ăn với tỉ lệ so với nhu cầu thấp nhất bên cạnh các axit amin
thiết yếu khác, nó quyết định mức độ tổng hợp protein trong cơ thể gà là axit
amin giới hạn (Dương Thanh Liêm và ctv., 2002) [61]. Vì vậy khi xây dựng khẩu
phần cho gà phải đảm bảo cung cấp đầy đủ và cân đối các axit amin thiết yếu.
Cơ thể gà cần 12 axit amin thiết yếu, trong đó lysine là axit amin thiết yếu
được quan tâm đầu tiên (Dương Thanh Liêm và ctv., 2002) [61]. Một số axit amin
thiết yếu có thể chuyển hóa cho nhau như methionine có thể chuyển hóa thành
cystein và cystin nhưng không thể chuyển hóa ngược lại (Baker, 1976) [14]. Do
đó nhu cầu methionine chỉ được thỏa mãn bằng methionine và methionine tối
thiểu phải chiếm 40-60% so với tổng số methionine + cystin (Dương Thanh Liêm
và ctv., 2002) [61]. Ngoài ra, phenylalanin có thể chuyển hóa thành tyrosine
(Sasse and Baker, 1972) [193], nhưng sự chuyển hóa ngược lại chiếm tỉ lệ rất nhỏ
(Ishibashi, 1972) [98]. Theo Dương Thanh Liêm và ctv. (2002) [61] thì tyrosine
phải chiếm 46% tổng số của phenylalanin + tyrosin.
2.4.2.2 Bảng axit amin lý tưởng và nhu cầu axit amin của gà thịt
Hiện nay, bảng axit amin lý tưởng theo lysine được sử dụng để xây dựng
công thức khẩu phần cho gà (Baker and Han, 1994 [15]; NRC, 1994 [155]; Baker,
1997 [16]; Emmert and Baker, 1997 [69]; Mack et al., 1999 [131]; Baker et al.,
2002 [18]). Bảng axit amin lý tưởng không phải là nhu cầu axit amin, mà là tỉ lệ
axit amin không thay đổi khi protein trong khẩu phần thay đổi. Vì vậy, khi nhu
cầu axit amin của gà thay đổi thì phải tuân theo bảng axit amin lý tưởng lysine.
Theo Mack et al. (1999) [131] để xác định bảng axit amin lý tưởng chính
xác cần lưu ý: thí nghiệm phải sử dụng khẩu phần cơ bản giống nhau, gà và giai
đoạn thử nghiệm giống nhau; biết khả năng tiêu hóa axit amin thực sự của khẩu
phần cơ bản; phân loại axit amin rõ ràng để giới hạn axit amin được nghiên cứu;
mục tiêu và qui trình rõ ràng để dự đoán nhu cầu mỗi axit amin. Bảng axit amin
lý tưởng theo lysine để xây dựng khẩu phần cho gà được trình bày ở Bảng 2.2.
Bảng axit amin lý tưởng theo lysine của Baker (1997) [16] được hiệu chỉnh
một phần từ kết quả của Baker and Han (1994) [15], tỉ lệ này đã được so sánh với
kết quả của NRC (1994) [155] và một số tỉ lệ đã dựa vào số liệu của Han and
Baker (1994) [82]. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào bảng axit amin lý tưởng này thì nhu
cầu lysine duy trì cao hơn so với các kết quả trước đó của Edwards and Baker
10
(1999) [68]. Emmert and Baker (1997) [69] đề nghị không thay đổi tỉ lệ
tryptophan và axit amin có gốc lưu huỳnh đối với gà thịt tuần 6, 8 hay 10 và tỉ lệ
threonine:lysine này tăng nhẹ khi gà lớn dần. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của
Salehifar et al. (2012) [191] cho thấy tăng trọng của gà thịt giai đoạn 29-42 ngày
tuổi tăng khi tỉ lệ các axit amin so với lysine tăng ở mức như leucine:lysine
(144:100), isoleucine:lysine (75:100), methionine:lysine (48:100), valin:lysine
(85:100) và met+cys:lys (81:100). Tương tự, Mack et al. (1999) [131] yêu cầu tỉ
lệ methionine+cystin so với lysine cho gà thịt thấp nhất là 77:100.
Bảng 2.2: Bảng axit amin lý tưởng theo lysine trong khẩu phần của gà
Axit amin Baker (1997)
[16]
NRC (1994)
[155]
Mack et al. (1999)
[131]
Baker et al. (2002)
[18]
Lysine 100 100 100 100
Methionine 36 42 - -
Cystine 36 33 - -
SAA 72 75 70 -
Threonine 67 67 59 56
Valine 77 75 76 78
Isoleucin 67 67 66 61
Leucine 109 100 - -
Tryptophan 16 17 17 17
Arginin 105 104 104 105
Histidine 35 29 - -
Phe + tyr 105 112 - -
Chú thích: SAA: axit amin chứa lưu huỳnh; Phe + tyr: phenylalanin + tyrosine.
Nhu cầu axit amin duy trì khác với nhu cầu axit amin cho tăng trọng tối ưu
ở gà thịt. Nhu cầu axit amin cho duy trì hàng ngày thấp ở giai đoạn gà con, sau đó
nhu cầu này tăng dần khi gà thịt lớn dần lên. Hơn nữa, mỗi dòng gà thịt có tỉ lệ
tăng trưởng và thành phần thân thịt khác nhau thì nhu cầu axit amin cũng khác
nhau. Nhu cầu lysine của gà thịt theo khuyến cáo của NRC (1994) [155] ở giai
đoạn 0-3; 3-6 và 6-8 tuần tuổi lần lượt là 11; 10 và 8,5g/kg thức ăn. Tuy nhiên
hàm lượng axit amin trong khẩu phần nuôi gà thịt trong những năm gần đây đã
được nâng lên và được trình bày ở Bảng 2.3.
11
Bảng 2.3: Hàm lượng axit amin trong khẩu phần gà thịt từ năm 2001 đến 2006
Hàm lượng protein thô và axit amin
Năm CP (%) Lys (%) Met (%) Met+Cys (%) Thr (%)
Giai đoạn gà úm
2001 22,4 1,20 0,51 0,87 0,83
2002 22,3 1,23 0,53 0,90 0,83
2003 22,0 1,26 0,53 0,88 0,83
2004 22,0 1,26 0,53 0,88 0,83
2005 22,3 1,28 0,54 0,89 0,85
2006 22,2 1,29 0,55 0,9 0,86
Giai đoạn gà giò
2001 20,9 1,12 0,50 0,86 0,76
2002 20,8 1,12 0,50 0,85 0,76
2003 20,2 1,12 0,48 0,84 0,75
2004 20,4 1,15 0,48 0,82 0,76
2005 20,6 1,17 0,50 0,84 0,77
2006 20,4 1,16 0,49 0,83 0,77
Giai đoạn vỗ béo
2001 19,8 1,02 0,42 0,77 0,73
2002 19,7 1,06 0,46 0,82 0,73
2003 19,2 1,06 0,46 0,80 0,71
2004 19,7 1,10 0,44 0,78 0,73
2005 19,8 1,10 0,48 0,81 0,73
2006 20,2 1,13 0,49 0,81 0,77
Nguồn: Petri and Lemme (2007) [181].
Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và khả năng sinh trưởng của gà
thịt thì việc cân bằng axit amin trong khẩu phần đã sử dụng theo bảng lý tưởng
của lysine. Vì vậy, để gà H’mông sử dụng thức ăn hiệu quả và cho năng suất cao
thì việc cân bằng axit amin trong khẩu phần cũng tuân theo tỉ lệ lysine. Hơn nữa,
hàm lượng lysine trong khẩu phần được thử nghiệm ở mức sử dụng cho gà công
nghiệp nuôi thịt để theo dõi khả năng sinh trưởng của gà H’mông.