Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ảnh hưởng của các mức năng lượng trao đổi và một số acid amin thiết yếu lên sinh trưởng và chất lượng thân thịt của gà H’mông
PREMIUM
Số trang
134
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1945

Ảnh hưởng của các mức năng lượng trao đổi và một số acid amin thiết yếu lên sinh trưởng và chất lượng thân thịt của gà H’mông

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

LÂM THÁI HÙNG

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC NĂNG LƯỢNG

TRAO ĐỔI VÀ MỘT SỐ ACID AMIN THIẾT

YẾU LÊN SINH TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG

THÂN THỊT CỦA GÀ H’MÔNG

LUẬN ÁN TIẾN SỸ

NGÀNH CHĂN NUÔI

MÃ SỐ: 62-62-01-05

2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

LÂM THÁI HÙNG

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC NĂNG LƯỢNG

TRAO ĐỔI VÀ MỘT SỐ ACID AMIN THIẾT

YẾU LÊN SINH TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG

THÂN THỊT CỦA GÀ H’MÔNG

LUẬN ÁN TIẾN SỸ

NGÀNH CHĂN NUÔI

MÃ SỐ: 62-62-01-05

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

PGS. TS. VÕ VĂN SƠN

2014

1

Chương 1: MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của luận án

Gà là đối tượng không thể tách rời ngành chăn nuôi tại Việt Nam, trong đó

gà nuôi thả vườn luôn giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế của hộ nghèo

(Đặng Thị Hạnh, 1999) [65] vì chi phí đầu tư cho hệ thống chăn nuôi này tương

đối thấp (Okitoi et al., 2007) [173]. Trong các giống gà nuôi thả vườn của Việt

Nam, gà H’mông thuộc nhóm gà có da, thịt và xương đen (Vũ Quang Ninh, 2001

[233]; Đào Lệ Hằng, 2001 [64]; Ngô Kim Cúc và ctv., 2002 [157]; Dương Thị

Anh Đào và ctv., 2011 [64]) và thịt gà có giá trị dinh dưỡng cao và ngọt nhờ hàm

lượng axit amin cao (Lương Thị Hồng và ctv., 2007 [129]). Gà H’mông được

nuôi ở ĐBSCL từ năm 2007 trên 6.000 con tại tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long (Hồ

Lâm, 2011) [90], chủ yếu bằng phương thức chăn thả hoặc bán chăn thả. Hơn nữa

thịt gà H’mông được đánh giá là ngon và ngọt (Trần Trọng Trung, 2011 [226];

Hồ Lâm, 2011 [90]).

Năng lượng trao đổi và axit amin trong khẩu phần ảnh hưởng chính đến sinh

trưởng và phát triển của gà. Đồng thời việc bổ sung protein vào khẩu phần mang

hiệu quả là nhờ sự cân đối các axit amin. Cơ thể chỉ tổng hợp protein từ mẫu axit

amin cân đối, bổ sung axit amin giới hạn để tạo sự cân đối (Lê Đức Ngoan và ctv,

2004) [119]. Trong khi, axit amin là đơn vị nhỏ nhất tổng hợp nên protein (Fuller,

2004) [75], nên nó là thành phần ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà. Ngày nay,

bảng axit amin lý tưởng theo lysine được sử dụng rộng rãi trong công thức khẩu

phần của gà (Baker, 1997 [16]; Mack et al., 1999 [131]; Baker et al., 2002 [18]).

Khi giảm protein thô và bổ sung axit amin vào khẩu phần đã hỗ trợ tốt cho tiêu

thụ thức ăn và tăng trưởng của gà thịt (Yamazaki et al., 1998 [244]; Aletor et al.,

2000 [7]). Hơn nữa, năng lượng trao đổi và axit amin khác nhau đã ảnh hưởng

đến sinh trưởng và chất lượng thịt (Araújo et al., 2005 [11]; Corzo et al., 2005

[42]). Do đó năng lượng trao đổi và axit amin liên quan không chỉ đến từng giai

đoạn phát triển và sản xuất của gà mà còn ảnh hưởng đến chất lượng thịt.

Chi phí thức ăn nuôi gà chiếm 60 - 90 % tổng chi phí sản xuất (Gunaratne et

al., 1992) [78], nên lợi nhuận thu được phụ thuộc lớn vào chi phí thức ăn. Hơn

nữa, các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi đã nhập khẩu trên 3,7 triệu tấn

nguyên liệu/năm (Mai Hương, 2013) [133]. Do đó để tăng lợi nhuận cho người

nuôi thì nên tận dụng thức ăn có sẵn của địa phương và kết hợp với chăn thả.

2

Ngoài ra, nghiên cứu để đánh giá ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và axit

amin trong khẩu phần lên sức sản xuất và chất lượng thịt gà H’mông chưa có.

Hơn nữa, kết quả thực hiện đề tài này sẽ tạo thêm những lựa chọn mới về giống

và phương thức nuôi gà thả vườn tại ĐBSCL.

1.2 Mục tiêu của luận án

Xây dựng khẩu phần ăn thích hợp dựa trên nhu cầu năng lượng trao đổi và

lysine và xác định phương thức nuôi thích hợp trong từng mùa cho gà H’mông

nuôi ở ĐBSCL.

Mục tiêu cụ thể:

Xác định ảnh hưởng của các mức năng lượng trao đổi và lysine lên sức sản

xuất thịt của gà H’mông qua từng giai đoạn sinh trưởng.

Xác định ảnh hưởng của các khẩu phần lên sức sản xuất và chất lượng thịt

gà H’mông.

Xác định ảnh hưởng của phương thức và mùa vụ nuôi lên sức sản xuất và

chất lượng thịt gà H’mông.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu gà H’mông được nuôi thịt tại tỉnh Trà Vinh với phạm vi gồm:

- Nghiên cứu ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và lysine lên sức sản xuất

của gà H’mông nuôi thịt từ 0 đến 14 tuần tuổi;

- Nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu phần khác nhau lên sức sản xuất và chất

lượng thân thịt của gà H’mông từ 0 đến 14 tuần tuổi;

- Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức nuôi và mùa vụ lên sức sản xuất và

chất lượng thân thịt của gà H’mông từ 5 đến 9 tuần tuổi.

1.4Những đóng góp mới của luận án

1. Mức năng lượng trao đổi và lysine tốt nhất trong khẩu phần để nuôi gà

H’mông thịt giai đoạn 0-4; 5-9; 10-14 lần lượt là 3.000 và 1,1%; 3.000 và 1,0%;

3.100 kcal/kg thức ăn và 0,85%.

2. Xác định được ảnh hưởng của phương thức và mùa vụ nuôi gà H’mông

cho sức sản xuất và chất lượng thịt tại ĐBSCL.

3

Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Vị trí địa lý, khí hậu và đất đai của tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh là tỉnh nằm trong khu vực Tây Nam bộ của Việt Nam, phía Đông

giáp biển đông, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Sóc Trăng,

phía Bắc giáp tỉnh Bến Tre (Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh, 2013) [39]. Trà

Vinh thuộc nữa Bán cầu Bắc, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau

và mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9 (Wikipedia, 2013a) [242].

Diện tích tự nhiên là 2.341 km2

, được bao bọc bởi sông Tiền và sông Hậu,

có 65 km bờ biển. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu mát mẻ quanh

năm, nhiệt độ trung bình 26-270

C, độ ẩm trung bình 83-85%, lượng mưa trung

bình 1.500 mm, ít bị ảnh hưởng bởi bão lũ. Diện tích đất nông nghiệp là 185 ngàn

ha, đất ở nông thôn là 3.845 ha, đất chưa sử dụng là 900 ha. Đất cát giồng toàn

tỉnh chiếm 6,62% (Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh, 2013) [39].

Hình 2.1: Bản đồ địa lý hành chính của tỉnh Trà Vinh

Như vậy, với diện tích đất giồng cát chiếm 6,62% và đất nông nghiệp chiếm

tỉ lệ lớn nên việc phát triển gà thả vườn theo phương thức chăn thả hoặc bán chăn

thả trên địa bàn tỉnh là hoàn toàn có thể.

2.2 Tình hình chăn nuôi gà thả vườn ở ĐBSCL

Nuôi gà chăn thả phát triển khắp mọi vùng nông thôn và đàn gà thả vườn

chiếm 65-70% tổng đàn gà cả nước (Lê Hồng Mận, 2002) [120]. Giống gà thả

vườn được nuôi bằng 3 phương thức như nuôi thả hoàn toàn, nuôi bán chăn thả và

nuôi nhốt hoàn toàn (Dương Thanh Liêm, 2003) [62]. Kết quả phân tích của

Nguyễn Quốc Nghi và ctv. (2011) [162] cho thấy nuôi gà thả vườn bán công

4

nghiệp ở ĐBSCL mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho người nuôi và cần mở

rộng qui mô sản xuất để tăng thu nhập cho nông hộ.

Giống gà thả vườn được nuôi phổ biến ở ĐBSCL bao gồm gà Tàu Vàng, gà

Nòi, gà Ác, gà Tre, gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng…, trong đó giống gà Nòi

được người dân nuôi nhiều nhất (Nguyễn Văn Quyên, 2008c) [170]. Những hộ

nuôi bán chăn thả với qui mô nhỏ đã chọn mua con giống tại địa phương, còn hộ

nuôi với qui mô lớn thì chọn con giống tại các Trung tâm sản xuất con giống

(Nguyễn Quốc Nghi và ctv., 2011) [162]. Một trong các giống gà bản địa được

chọn nuôi theo phương thức thả vườn ở các địa phương miền Bắc là gà H'mông.

Gà H’mông chứa gen quý và thịt có giá trị dinh dưỡng cao và ngọt nhờ hàm

lượng axit amin cao (Lương Thị Hồng và ctv., 2007) [129].

Năm 2000, Chu Khôi (2010) [36] cho biết kinh phí của dự án "Bảo tồn các

giống vật nuôi có vốn gen quý hiếm tại Việt Nam", TS. Võ Văn Sự đã chủ trì đề

tài và Viện Chăn nuôi đã nuôi thích nghi thành công giống gà H’mông tại Hà

Nội. Năm 2003 Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn đã giao Viện Chăn nuôi

thực hiện dự án “Hoàn thiện quy trình công nghệ chăn nuôi vịt Bầu Quỳ và gà

H’mông”, sau đó giống gà H’mông được liệt vào danh sách nuôi giữ giống gốc.

Xã Cò Nòi (huyện Hát Lót - Sơn La) đã nhận từ Viện Chăn nuôi 1.000 con giống

gà H‘mông, đưa vào chăn nuôi theo hướng hàng hoá. Công ty Giống vật nuôi quý

hiếm Hà Khánh (thôn Thái Thông, xã Vĩnh Thái, thành phố Nha Trang) đang liên

kết với nông dân ở Nha Trang, chăn nuôi bao tiêu sản phẩm giống gà H’mông,

với quy mô đàn hiện tại 70.000 con. Công ty TNHH Lạc Hoà (xã Tiến Xuân,

Lương Sơn, Hoà Bình) hiện liên kết với 20 hộ nông dân nuôi gà H'mông, quy mô

đàn 30 ngàn con. Mỗi hộ nông dân chăn nuôi gia công cho Công ty 1.000 - 2.000

con. Tại ĐBSCL, gà H’mông được nuôi từ năm 2010 tại tỉnh Tiền Giang và Vĩnh

Long, gà dễ nuôi và tỉ lệ hao hụt thấp (Trần Trọng Trung, 2011) [226] và sau đó

lan dần sang nhiều tỉnh khác. Như vậy, gà H’mông hiện nay được nuôi rộng rãi từ

Bắc vào Nam.

Thức ăn được sử dụng nuôi gà thả vườn tại ĐBSCL có 3 nguồn như thức ăn

nguyên liệu của địa phương, thức ăn công nghiệp và thức ăn có sẵn trong vườn.

Thức ăn có sẵn trong vườn gồm các loại hạt, các loại cỏ tươi, các loại sâu bọ và

côn trùng (Nguyễn Hữu Tỉnh, 1999) [160]. Tấm gạo được nông hộ sử dụng để

nuôi gà Nòi con và lúa nguyên hạt được dùng để nuôi gà giò, gà trưởng thành và

gà sinh sản (Nguyễn Văn Quyên, 2008c) [170]. Kết quả nghiên cứu của Đỗ Võ

5

Anh Khoa và Nguyễn Minh Thông (2012) [66] cho thấy hầu hết thức ăn công

nghiệp đang có ngoài thị trường đều đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho gà Tàu

Vàng giai đoạn úm, tỉ lệ nuôi sống của gà 1-4 tuần tuổi với các loại thức ăn công

nghiệp không khác biệt và đạt tỉ lệ 97,92%.

Tỉ lệ nhiễm bệnh trên gà nuôi thả hoàn toàn là 75%, cao hơn gà nuôi bán

chăn thả 69,23% và nuôi nhốt hoàn toàn 36,57%. Nguyên nhân gà nuôi thả hoàn

toàn mắc bệnh cao là do gà được thả để tự kiếm thức ăn nên nguy cơ nhiễm mầm

bệnh từ môi trường bên ngoài cao (Hồ Thị Việt Thu, 2012) [91]. Một trong những

loại bệnh nguy hiểm là bệnh Newcastle, bệnh này được lưu hành từ lâu và suốt từ

Bắc đến Nam (Nguyễn Vĩnh Phước và ctv., 1978) [172]. Một số nghiên cứu ở

ĐBSCL cũng cho thấy tỉ lệ mắc bệnh Newcastle ở những đàn gà không được tiêm

phòng là rất cao: 58% ở An Giang (Mai Hoàng Việt, 1998) [132] và 47,4% ở

Đồng Tháp (Dương Nghĩa Quốc, 2007) [60].

Gà được nuôi thả vườn chiếm khoảng 70% trong ngành chăn nuôi gà và nó

đóng góp lớn vào phát triển kinh tế của đất nước. Hơn nữa, gà thả vườn của Việt

Nam có nguồn gen đa dạng và thịt gà thả vườn đáp ứng được thị hiếu của người

tiêu dùng và phù hợp với ẩm thực của người Việt. Trong khi chi phí thức ăn

chiếm 60-90% tổng chi phí sản xuất gà thả vườn (Gunaratne et al., 1992) [78]. Vì

vậy để nâng cao hiệu quả nuôi gà thả vườn tại ĐBSCL cần phải giảm chi phí thức

ăn bằng nhiều cách khác nhau như: (1) Tận dụng thức ăn có sẵn trong vườn như

côn trùng, các loại hạt và cây cỏ. Đồng thời thả gà với mật độ thích hợp để đảm

bảo nguồn thức ăn có sẵn trong vườn có thể tái sinh. Tăng cường trồng cây ăn trái

để tạo bóng mát cho gà và trồng thêm rau và cỏ làm thức ăn xanh. Hơn nữa, tạo

hệ thực vật phong phú sẽ tạo điều kiện tốt cho côn trùng và các động vật khác

phát triển. (2) Bổ sung axit amin tổng hợp vào khẩu phần từ các nguồn thức ăn có

sẵn của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng protein thô của khẩu phần,

qua đó nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn của gà và giảm chi phí.

2.3 Đặc điểm và khả năng sản xuất của gà H’mông

Gà H’mông thuộc giống gà thả vườn nội địa, có nguồn gốc ở vùng núi phía

Bắc, được nuôi theo phương thức truyền thống và chiếm tỉ lệ 13-14% trong cơ

cấu đàn gà tại các huyện vùng núi của tỉnh Hà Giang (Trần Thanh Vân và ctv.,

2006) [222]. Gà thuộc nhóm gà da, thịt và xương đen (Vũ Quang Ninh, 2001

[233]; Đào Lệ Hằng, 2001 [64]; Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011 [63]). Hơn

nữa, thịt gà H’mông có giá trị dinh dưỡng cao và ngọt nhờ hàm lượng axit amin

6

cao (Lương Thị Hồng và ctv., 2007) [129]. Bên cạnh đó, gà H’mông còn chứa

gen quý của giống gà bản địa và hiện nay được Viện Chăn nuôi nuôi giữ quỹ gen

và sản xuất giống đưa xuống vùng đồng bằng nuôi tập trung để cung cấp thực

phẩm cho con người.

Gà H’mông mới nở có 4 màu lông chính là đen tuyền, tro, vàng rơm và

trắng (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011) [63]. Lúc trưởng thành gà có màu sắc

đa dạng, trong đó màu lông xám chiếm tỉ lệ 34,1%, màu đen 16,6% và màu vàng

rơm 3,4%, khối lượng cơ thể lúc 12 tuần tuổi là 942 g/con và lúc 24 tuần đạt

1.820 g/con trống và 1.400 g/con mái (Trần Thanh Vân và ctv., 2006) [222]. Theo

Dương Thị Anh Đào và ctv. (2011) [63] cho biết gà trưởng thành khi nuôi trên 12

tháng thì con trống có tầm vóc cao to, dáng hùng dũng, nhanh nhẹn và khối lượng

có thể đạt trên 3 kg, còn gà mái có tầm vóc trung bình, khối lượng đạt 2,5-2,6 kg;

100% gà có mào cờ, màu đen hoặc đỏ thẫm; chân đen chiếm trên 90%, chân vàng

chiếm 5-10%; chân có 4 ngón chiếm 98%, một số ít có 5 ngón, chân có lông

chiếm 5-10%; bộ lông dầy, mượt, màu sắc lông đa dạng, đuôi dài và vểnh.

Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng cơ thể là 3,3 kg, tỉ lệ nuôi sống

trên 92%, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu của Việt Nam và tuổi đẻ trứng đầu

tiên khoảng 135-140 ngày (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011) [63]. Gà H'mông

lông đen nuôi nhốt 3 tuần đầu sau đó nuôi thả cho thấy gà thích nghi với điều

kiện nuôi bán chăn thả tại nông hộ, sau 12 tuần tuổi tỉ lệ nuôi sống đạt 85,84%,

đặc tính sinh dục thứ cấp hoạt động sớm, khối lượng cơ thể đạt 1.206 g và tiêu

tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cơ thể là 3,54 kg (Trần Thanh Vân, 2005) [221].

Gà H’mông rất háu ăn, bản tính chăm chỉ và chịu khó bới tìm thức ăn; khi

ngủ gà rụt cổ, đầu chúi xuống, bụng ép xuống nền và 2 cánh khép; hiếu động và

nhạy cảm, đặc biệt nhạy cảm với tín hiệu âm thanh và màu sắc, gà hung dữ và

hiếu chiến (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011 [63]; Đào Lệ Hằng, 2001 [64]).

Hành vi tranh giành con mái, ghẹ mái, cường độ hoạt động sinh dục và đẻ trứng

diễn ra vào các thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng biểu hiện đòi ấp của gà

H’mông không cao (Dương Thị Anh Đào và ctv., 2011) [63].

Gà H’mông được nuôi ở miền Nam từ những năm 2007 để lấy thịt cung cấp

cho con người. Đây là giống gà thích nghi lâu đời tại vùng núi cao, nhưng được

Viện Chăn nuôi Quốc gia đánh giá là có khả năng thích nghi tốt tại vùng Đồng

bằng phía Bắc và phát triển được ở các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu về ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và axit amin

7

lên khả năng sinh trưởng và sản xuất của gà H’mông và việc đánh giá khả năng

sinh trưởng và chất lượng thịt gà H’mông với các phương thức nuôi và mùa vụ tại

vùng ĐBSCL còn hạn chế. Hơn nữa, năng lượng trao đổi và hàm lượng một số

axit amin thiết yếu trong khẩu phần đã được đánh giá là ảnh hưởng đến khả năng

sinh trưởng và chất lượng thân thịt của giống gà công nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu

này nhằm làm rõ hơn sự ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và một số axit amin

thiết yếu khác nhau trong khẩu phần lên khả năng sinh trưởng và chất lượng thân

thịt của gà H’mông.

2.4 Ảnh hưởng của năng lượng trao đổi và axit amin khẩu phần lên

sinh trưởng và chất lượng thịt gà

2.4.1 Ảnh hưởng của năng lượng khẩu phần lên tiêu thụ thức ăn của gà

Năng lượng cần thiết cho các hoạt động sống của cơ thể gà bao gồm năng

lượng phục vụ cho các hoạt động tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp, hoạt động sinh sản,

bài tiết và quá trình trao đổi chất. Cơ thể gà cần năng lượng từ protein, lipid và

carbohydrate trong thức ăn để duy trì sự sống và tích lũy lại trong cơ thể, trong đó

carbohydrate cung cấp năng lượng chiếm tỉ lệ 40-60% (Võ Bá Thọ, 1996) [231].

Khi xây dựng khẩu phần cho gà thì mức năng lượng trong khẩu phần là yếu

tố được quan tâm đầu tiên, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiêu thụ thức ăn. Hơn

nữa, cũng phải chú ý đến tỉ lệ giữa năng lượng và protein hoặc tỉ lệ giữa năng

lượng và axit amin. Theo Dương Thanh Liêm (2003) [62] cho biết việc tổ hợp

khẩu phần thức ăn cho gà nếu thừa protein hoặc mất cân đối axit amin đều dẫn

đến sự khai thác năng lượng trong thức ăn không hiệu quả. Ngoài ra, việc xác

định mức năng lượng trao đổi tối thiểu trong khẩu phần thức ăn của gà cũng được

căn cứ vào tốc độ sinh trưởng của chúng và được trình bày ở Bảng 2.1.

Bảng 2.1: Nhu cầu năng lượng trao đổi của gà theo tốc độ sinh trưởng

Tốc độ sinh trưởng Mức năng lượng trao đổi tối thiểu, kcal/kg thức ăn

Năng lượng trao đổi Năng lượng tiêu hóa

Mức cao  3.000  3.200

Mức trung bình 2.750-3.000 2.970-3.200

Mức thấp  2.750  2.970

Để năng suất gà đạt tối ưu trên lượng thức ăn được tiêu thụ, thì nhu cầu

năng lượng trao đổi cho gà thịt công nghiệp ở các giai đoạn theo tiêu chuẩn NRC

8

(1984) [154] là 3.011 kcal/kg thức ăn. Tuy nhiên, đối với gà Nòi nuôi thịt ở các

giai đoạn tuổi thì nhu cầu năng lượng trao đổi cho tăng trọng tối ưu là 2.900

kcal/kg thức ăn (Nguyễn Văn Quyên và Võ Văn Sơn, 2008a [168]; 2008b [169]).

Lượng ăn vào của gà tương quan nghịch với mức năng lượng trao đổi khẩu

phần, chẳng hạn gà sẽ tiêu thụ nhiều thức ăn hơn với khẩu phần thấp năng lượng,

ngược lại gà tiêu thụ ít thức ăn hơn với khẩu phần cao năng lượng (Summers,

2000) [212]. Kết quả nghiên cứu của Brue and Latshaw (1985) [28] cũng cho

thấy gà giò nuôi thịt tiêu thụ nhiều năng lượng hơn khi ăn khẩu phần năng lượng

cao so với gà được nuôi bằng khẩu phần năng lượng từ thấp tới vừa. Bên cạnh đó,

gà có thể tự điều chỉnh năng lượng ăn vào nhưng không chính xác, nên khi ăn

khẩu phần cao năng lượng gà sẽ tích lũy mỡ trong cơ thể, từ đó lượng ăn vào

giảm dẫn đến thiếu dưỡng chất và giảm tăng trọng (NRC, 1994) [155]. Theo Bùi

Đức Lũng và Lê Hồng Mận (2001) [30] cho biết năng lượng không bị bài thải ra

ngoài khi lượng tiêu thụ của gà dư thừa mà năng lượng được tích lũy vào cơ thể.

Tuy nhiên gà thịt điều hòa lượng ăn vào chính xác hơn khi được nuôi bằng khẩu

phần năng lượng thấp (Latshaw et al., 1990) [117].

Khẩu phần của gà nuôi thịt chăn thả vườn theo khuyến cáo của Trần Công

Xuân và ctv (1999) [220] thì mức năng lượng trao đổi là 3.100 kcal/kg thức ăn đã

cho năng suất tốt nhất. Đồng thời, tác giả Nguyễn Bá Thuyên (1998) [158] đề

nghị sử dụng khẩu phần có hàm lượng dinh dưỡng cho gà Ta Vàng nuôi ở thành

phố Hồ Chí Minh với năng lượng trao đổi là 3.000 kcal/kg thức ăn. Do đó, việc

nghiên cứu mức năng lượng trao đổi trong khẩu phần của gà H’mông nuôi thịt từ

3.000 kcal/kg thức ăn trở lên là điều cần thiết.

2.4.2 Ảnh hưởng của axit amin thiết yếu lên sinh trưởng và chất lượng

thịt gà

2.4.2.1 Axit amin thiết yếu

Axit amin là acid hữu cơ, đơn vị nhỏ nhất để tổng hợp nên protein và được

cấu tạo bởi carbon, hydro, oxy, nitơ, một số axit amin còn chứa lưu huỳnh và

selen (Fuller, 2004) [75]. Có 20 loại axit amin tham gia vào quá trình sinh tổng

hợp protein trong cơ thể gà và về chức năng sinh lý thì tất cả đều quan trọng. Tuy

nhiên, các loại axit amin này được chia thành 2 nhóm đó là axit amin thiết yếu và

axit amin không thiết yếu. Axit amin thiết yếu là các axit amin phải được cung

cấp từ thức ăn, còn axit amin không thiết yếu là axit amin mà cơ thể có thể tổng

9

hợp từ các axit amin khác (D’Mello, 2003a) [56]. Ngoài ra, các axit amin thiết

yếu có trong thức ăn với tỉ lệ so với nhu cầu thấp nhất bên cạnh các axit amin

thiết yếu khác, nó quyết định mức độ tổng hợp protein trong cơ thể gà là axit

amin giới hạn (Dương Thanh Liêm và ctv., 2002) [61]. Vì vậy khi xây dựng khẩu

phần cho gà phải đảm bảo cung cấp đầy đủ và cân đối các axit amin thiết yếu.

Cơ thể gà cần 12 axit amin thiết yếu, trong đó lysine là axit amin thiết yếu

được quan tâm đầu tiên (Dương Thanh Liêm và ctv., 2002) [61]. Một số axit amin

thiết yếu có thể chuyển hóa cho nhau như methionine có thể chuyển hóa thành

cystein và cystin nhưng không thể chuyển hóa ngược lại (Baker, 1976) [14]. Do

đó nhu cầu methionine chỉ được thỏa mãn bằng methionine và methionine tối

thiểu phải chiếm 40-60% so với tổng số methionine + cystin (Dương Thanh Liêm

và ctv., 2002) [61]. Ngoài ra, phenylalanin có thể chuyển hóa thành tyrosine

(Sasse and Baker, 1972) [193], nhưng sự chuyển hóa ngược lại chiếm tỉ lệ rất nhỏ

(Ishibashi, 1972) [98]. Theo Dương Thanh Liêm và ctv. (2002) [61] thì tyrosine

phải chiếm 46% tổng số của phenylalanin + tyrosin.

2.4.2.2 Bảng axit amin lý tưởng và nhu cầu axit amin của gà thịt

Hiện nay, bảng axit amin lý tưởng theo lysine được sử dụng để xây dựng

công thức khẩu phần cho gà (Baker and Han, 1994 [15]; NRC, 1994 [155]; Baker,

1997 [16]; Emmert and Baker, 1997 [69]; Mack et al., 1999 [131]; Baker et al.,

2002 [18]). Bảng axit amin lý tưởng không phải là nhu cầu axit amin, mà là tỉ lệ

axit amin không thay đổi khi protein trong khẩu phần thay đổi. Vì vậy, khi nhu

cầu axit amin của gà thay đổi thì phải tuân theo bảng axit amin lý tưởng lysine.

Theo Mack et al. (1999) [131] để xác định bảng axit amin lý tưởng chính

xác cần lưu ý: thí nghiệm phải sử dụng khẩu phần cơ bản giống nhau, gà và giai

đoạn thử nghiệm giống nhau; biết khả năng tiêu hóa axit amin thực sự của khẩu

phần cơ bản; phân loại axit amin rõ ràng để giới hạn axit amin được nghiên cứu;

mục tiêu và qui trình rõ ràng để dự đoán nhu cầu mỗi axit amin. Bảng axit amin

lý tưởng theo lysine để xây dựng khẩu phần cho gà được trình bày ở Bảng 2.2.

Bảng axit amin lý tưởng theo lysine của Baker (1997) [16] được hiệu chỉnh

một phần từ kết quả của Baker and Han (1994) [15], tỉ lệ này đã được so sánh với

kết quả của NRC (1994) [155] và một số tỉ lệ đã dựa vào số liệu của Han and

Baker (1994) [82]. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào bảng axit amin lý tưởng này thì nhu

cầu lysine duy trì cao hơn so với các kết quả trước đó của Edwards and Baker

10

(1999) [68]. Emmert and Baker (1997) [69] đề nghị không thay đổi tỉ lệ

tryptophan và axit amin có gốc lưu huỳnh đối với gà thịt tuần 6, 8 hay 10 và tỉ lệ

threonine:lysine này tăng nhẹ khi gà lớn dần. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của

Salehifar et al. (2012) [191] cho thấy tăng trọng của gà thịt giai đoạn 29-42 ngày

tuổi tăng khi tỉ lệ các axit amin so với lysine tăng ở mức như leucine:lysine

(144:100), isoleucine:lysine (75:100), methionine:lysine (48:100), valin:lysine

(85:100) và met+cys:lys (81:100). Tương tự, Mack et al. (1999) [131] yêu cầu tỉ

lệ methionine+cystin so với lysine cho gà thịt thấp nhất là 77:100.

Bảng 2.2: Bảng axit amin lý tưởng theo lysine trong khẩu phần của gà

Axit amin Baker (1997)

[16]

NRC (1994)

[155]

Mack et al. (1999)

[131]

Baker et al. (2002)

[18]

Lysine 100 100 100 100

Methionine 36 42 - -

Cystine 36 33 - -

SAA 72 75 70 -

Threonine 67 67 59 56

Valine 77 75 76 78

Isoleucin 67 67 66 61

Leucine 109 100 - -

Tryptophan 16 17 17 17

Arginin 105 104 104 105

Histidine 35 29 - -

Phe + tyr 105 112 - -

Chú thích: SAA: axit amin chứa lưu huỳnh; Phe + tyr: phenylalanin + tyrosine.

Nhu cầu axit amin duy trì khác với nhu cầu axit amin cho tăng trọng tối ưu

ở gà thịt. Nhu cầu axit amin cho duy trì hàng ngày thấp ở giai đoạn gà con, sau đó

nhu cầu này tăng dần khi gà thịt lớn dần lên. Hơn nữa, mỗi dòng gà thịt có tỉ lệ

tăng trưởng và thành phần thân thịt khác nhau thì nhu cầu axit amin cũng khác

nhau. Nhu cầu lysine của gà thịt theo khuyến cáo của NRC (1994) [155] ở giai

đoạn 0-3; 3-6 và 6-8 tuần tuổi lần lượt là 11; 10 và 8,5g/kg thức ăn. Tuy nhiên

hàm lượng axit amin trong khẩu phần nuôi gà thịt trong những năm gần đây đã

được nâng lên và được trình bày ở Bảng 2.3.

11

Bảng 2.3: Hàm lượng axit amin trong khẩu phần gà thịt từ năm 2001 đến 2006

Hàm lượng protein thô và axit amin

Năm CP (%) Lys (%) Met (%) Met+Cys (%) Thr (%)

Giai đoạn gà úm

2001 22,4 1,20 0,51 0,87 0,83

2002 22,3 1,23 0,53 0,90 0,83

2003 22,0 1,26 0,53 0,88 0,83

2004 22,0 1,26 0,53 0,88 0,83

2005 22,3 1,28 0,54 0,89 0,85

2006 22,2 1,29 0,55 0,9 0,86

Giai đoạn gà giò

2001 20,9 1,12 0,50 0,86 0,76

2002 20,8 1,12 0,50 0,85 0,76

2003 20,2 1,12 0,48 0,84 0,75

2004 20,4 1,15 0,48 0,82 0,76

2005 20,6 1,17 0,50 0,84 0,77

2006 20,4 1,16 0,49 0,83 0,77

Giai đoạn vỗ béo

2001 19,8 1,02 0,42 0,77 0,73

2002 19,7 1,06 0,46 0,82 0,73

2003 19,2 1,06 0,46 0,80 0,71

2004 19,7 1,10 0,44 0,78 0,73

2005 19,8 1,10 0,48 0,81 0,73

2006 20,2 1,13 0,49 0,81 0,77

Nguồn: Petri and Lemme (2007) [181].

Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và khả năng sinh trưởng của gà

thịt thì việc cân bằng axit amin trong khẩu phần đã sử dụng theo bảng lý tưởng

của lysine. Vì vậy, để gà H’mông sử dụng thức ăn hiệu quả và cho năng suất cao

thì việc cân bằng axit amin trong khẩu phần cũng tuân theo tỉ lệ lysine. Hơn nữa,

hàm lượng lysine trong khẩu phần được thử nghiệm ở mức sử dụng cho gà công

nghiệp nuôi thịt để theo dõi khả năng sinh trưởng của gà H’mông.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!