Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo giậu trong khẩu phần ăn có cùng mức năng lượng, protein đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ bố mẹ Lương Phượng
MIỄN PHÍ
Số trang
6
Kích thước
166.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1153

Ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo giậu trong khẩu phần ăn có cùng mức năng lượng, protein đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ bố mẹ Lương Phượng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Từ Quang Hiển và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 173 - 178

173

ẢNH HƯỞNG CỦA BỘT LÁ SẮN VÀ BỘT LÁ KEO GIẬU TRONG KHẨU

PHẦN ĂN CÓ CÙNG MỨC NĂNG LƯỢNG, PROTEIN ĐẾN NĂNG SUẤT

VÀ CHẤT LƯỢNG TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ BỐ MẸ LƯƠNG PHƯỢNG

Từ Quang Hiển

1*, Nguyễn Văn Đức

2

, Nguyễn Thị Mai Trang2

,

Chu Bá Trung2

, Từ Quang Trung3

1 Đại học Thái Nguyên,

2

Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên

3

Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Thí nghiệm trên gà đẻ bố mẹ Lương Phượng, gồm có 3 lô, lô đối chứng (ĐC), thí nghiệm 1 (TN1),

thí nghiệm 2 (TN2). Khẩu phần (KP) ăn của lô ĐC không có bột lá, còn khẩu phần ăn của TN1 có

6 % bột lá sắn (BLS), của lô TN2 có 6 % bột lá keo giậu (BLKG). Khẩu phần ăn của 3 lô có cùng

mức năng lượng trao đổi (2700 kcal/kg thức ăn) và protein (15 % trong thức ăn). Kết quả cho thấy:

Khẩu phần có BLS hoặc BLKG đã làm tăng tỷ lệ đẻ, năng suất trứng, hàm lượng cartenoids và

điểm số quat của lòng đỏ, tỷ lệ trứng có phôi, ấp nở, tỷ lệ gà con loại I/trứng ấp so với đối chứng

với sự sai khác rõ rệt (p < 0,05), làm giảm tiêu tốn, chi phí thức ăn cho sản xuất trứng, trứng giống,

gà con loại I. Các chỉ tiêu nêu trên của lô TN1 (BLS) và TN2 (BLKG) đều tương đương nhau và

không có sự sai khác rõ rệt (p > 0,05). Điều đó chứng tỏ sử dụng BLS hay BLKG bổ sung vào

thức ăn cho gà đẻ bố mẹ đều có kết quả như nhau.

Từ khóa: bột lá, cùng mức, thang điểm quạt.

MỞ ĐẦU

*

Bột lá sắn (BLS) và bột lá keo giậu (BLKG)

đều giàu protein và đặc biệt là giàu sắc tố.

Hàm lượng caroten trong vật chất khô (VCK)

của BLS từ 476 – 625 mg/kg (Trần Thị Hoan

2012); còn của BLKG từ 227 – 248 mg/kg

VCK (dẫn theo Từ Quang Hiển và CS, 2008).

Sắc tố làm tăng độ đậm màu của lòng đỏ

trứng gà, độ vàng của da gà. Gà mái sinh sản

ăn khẩu phần (KP) có ngô (vàng, đỏ) mà

không bổ sung sắc tố hoặc bột lá thì màu lòng

đỏ chỉ đạt 5 – 7 điểm theo thang điểm quạt

của Roche (1988), nhưng nếu bổ sung sắc tố

thương phẩm hoặc bột lá thì có thể đạt trên 10

điểm, màu của lòng đỏ đạt ở mức điểm này có

thể đáp ứng được thị hiếu của hầu hết người

tiêu dùng trong đó có cả những người đòi hỏi

lòng đỏ trứng có độ đậm màu cao.

Bên cạnh ảnh hưởng đến màu sắc lòng đỏ

trứng, sắc tố còn có tác dụng làm tăng tỷ lệ

đậu thai ở gia súc, tăng tỷ lệ trứng có phôi và

*

Tel:0913286190

ấp nở ở gia cầm. Đối với cá, sắc tố làm tăng

sản lượng trứng và chất lượng trứng

(Wantanabe, 2003).

Chính vì những ưu điểm trên của BLS và

BLKG mà đã có nhiều nghiên cứu về ảnh

hưởng của BLS và BLKG trong khẩu phần ăn

đến năng suất và chất lượng sản phẩm của vật

nuôi. Tuy nhiên, hầu như chưa có đề tài nào

nghiên cứu bổ sung hai loại bột lá này vào

khẩu phần ăn của cùng một đối tượng vật

nuôi là gà đẻ bố mẹ để so sánh ảnh hưởng của

chúng đối với năng suất và chất lượng trứng.

Thí nghiệm của chúng tôi nhằm giải quyết

vấn đề còn đang bỏ trống này.

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu là gà đẻ bố mẹ Lương

Phượng, bột lá sắn KM 94, bột lá keo giậu

Leucaena leucocephala.

Thí nghiệm được thực hiện tại Trung tâm

Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền núi

thuộc Viện Chăn nuôi.

Thí nghiệm gồm 180 gà mái đẻ bố mẹ Lương

Phượng ở tuần tuổi 41 – 50 (tuần đẻ 18 đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!