Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để rèn luyện tư duy cho học sinh lớp
PREMIUM
Số trang
136
Kích thước
40.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1959

xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để rèn luyện tư duy cho học sinh lớp

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM



LƯƠNG CÔNG THẮNG

Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn hóa học

Mã số : 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG

TP.HCM Năm 2010

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP

HÓA HỌC CÓ NHIỀU CÁCH GIẢI ĐỂ RÈN

LUYỆN TƯ DUY CHO HỌC SINH LỚP 12 TRUNG

HỌC PHỔ THÔNG

Trong nhöõng ngaøy thöïc hieän luaän vaên naøy, vì chöa quen vôùi coâng vieäc

neân em ñaõ gaëp khoâng ít khoù khaên. Ngoaøi nhöõng coá gaéng cuûa baûn thaân

vaø söï hoã trôï cuûa gia ñình, neáu khoâng coù söï giuùp ñôõ raát nhieät tình vaø

chaân thaønh cuûa caùc thaày coâ vaø ñoàng nghieäp thì coù leõ em ñaõ khoâng theå

hoaøn thaønh toát ñeà taøi nghieân cöùu cuûa mình. Do vaäy khi caàm treân tay

quyeån luaän vaên, lôøi ñaàu tieân em muoán noùi laø lôøi caûm ôn chaân thaønh

ñeán nhöõng ngöôøi ñaõ giuùp ñôõ em.

Em xin ñöôïc göûi lôøi caûm ôn ñaëc bieät ñeán PGS.TS. Nguyeãn Xuaân

Tröôøng, ngöôøi thaày ñaõ taän taâm, raát nhieät tình vaø heát mình höôùng daãn

chæ baûo cho em trong suoát quaù trình thöïc hieän vaø hoaøn thaønh luaän vaên.

Em cuõng xin chaân thaønh caûm ôn caùc thaày coâ trong khoa Hoùa ñaëc

bieät laø PGS.TS.Trònh Vaên Bieàu ñaõ luoân uûng hoä, goùp yù vaø giuùp ñôõ em

trong thôøi gian qua.

Vaø cuoái cuøng em cuõng xin caûm ôn thaày Nguyeãn Anh Duy, Thaày

Nguyeãn Vaên Vöông, thaày Löu Quoác Thaønh, coâ Nguyeãn Thò Phöông

Uyeân vaø anh chò hoïc vieân cao hoïc K.18 ñaõ ñoäng vieân, giuùp ñôõ em

hoaøn thaønh luaän vaên.

Böôùc ñaàu laøm quen vôùi coâng vieäc nghieân cöùu, vôùi thôøi gian vaø

khaû naêng coøn haïn cheá neân luaän vaên khoâng traùnh khoûi nhöõng thieáu soùt.

Em kính mong nhaän ñöôïc söï ñoùng goùp chaân thaønh cuûa quí thaày coâ vaø

caùc baïn.

Xin chaân thaønh caûm ôn

Tp. Hoà Chí Minh thaùng 7 naêm 2010

Bảng chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

Bài tập BT

Bài tập hóa học BTHH

Định luật bào toàn khối lượng ĐLBTKL

Đối Chứng ĐC

Giáo viên GV

Học sinh HS

Phương pháp dạy học PPDH

Phương trình PT

Phương trình hóa học PTHH

Trung học phổ thông THPT

Thực nghiệm TN

Thực nghiệm sư phạm TNSP

Sách giáo khoa SGK

Danh mục các bảng

Bàng 3.1. Phân phối tần số, tần suất và tần suất lũy tích

( Lớp 12A10 và 12A11 của trường THPT Võ Trường Toản)

Bảng 3.2. Phân phối tần số, tần suất và tần suất lũy tích

( Lớp 12A1 và 12A2 của trường THPT TT Đông Du)

Bảng 3.3. Phân phối tần số, tần suất và tần suất lũy tích

( Lớp 12A4 và 12A8 của trường THPT TT Đông Du)

Bảng 3.4. Phân phối tần số, tần suất và tần suất lũy tích

( Lớp 12A4 và 12A5 của trường THPT Lê Minh Xuân)

Bảng 3.5. Phân phối tần số, tần suất và tần suất lũy tích

( Lớp 12A3 và 12A7 của trường THPT Tam Phú)

Bảng 3.6. Tổng hợp phân phối tần số

Bảng 3.7. Tổng hợp các tham số đặc trưng

Danh mục các hình vẽ, đồ thị

Hình 3.1. Đồ thị đường lũy tích lớp 12A11 và 12A10 trường THPT Võ Trường Toản.

Hình 3.2. Đồ thị đường lũy tích lớp 12A1 và 12A2 trường THPT TT Đông Du.

Hình 3.3. Đồ thị đường lũy tích lớp 12A4 và 12A8 trường THPT TT Đông Du.

Hình 3.4. Đồ thị đường lũy tích lớp 12A4 và 12A5 trường THPT Lê Minh Xuân.

Hình 3.5. Đồ thị đường lũy tích lớp 12A3 và 12A7 trường THPT Tam Phú.

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Một trong những mục tiêu dạy học hóa học ở Trung học phổ thông là ngoài việc truyền thụ kiến

thức hóa học phổ thông cơ bản còn cần mở rộng kiến thức, hình thành cho học sinh phương pháp học

tập khoa học, phát huy tính chủ động, sáng tạo, rèn luyện năng lực nhận thức, tư duy hóa học thông qua

các hoạt động học tập đa dạng, phong phú. Như vậy, ngoài nhiệm vụ đào tạo toàn diện cho thế hệ trẻ,

việc dạy học hóa học còn có chức năng phát hiện, bồi dưỡng, nâng cao tri thức cho những học sinh có

năng lực, hứng thú trong học tập bộ môn. Nhiệm vụ này được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác

nhau.Trong đó bài tập hóa học là một trong những phương tiện giúp học sinh rèn luyện được tư duy.

Giải một bài toán hóa học bằng nhiều phương pháp khác nhau là một trong những nội dung

quan trọng trong dạy học hóa học ở trường phổ thông. Phương pháp giáo dục ở ta hiện nay còn nhiều

gò bó và hạn chế tầm suy nghĩ, sáng tạo của học sinh. Bản thân các em học sinh khi đối mặt với một

bài toán cũng thường có tâm lý tự hài lòng sau khi đã giải quyết được bài toán bằng cách nào đó, mà

chưa nghĩ đến chuyện tìm cách giải tối ưu, giải quyết bài toán bằng cách nhanh nhất. Do đó, giải bài

toán hóa học bằng nhiều cách khác nhau là một cách để rèn luyện tư duy và kỹ năng học hóa của mỗi

người, giúp ta có khả năng nhìn nhận vấn đề theo nhiều hướng khác nhau, phát triển tư duy logic, sử

dụng thành thạo và tận dụng tối đa các kiến thức đã học. Đối với giáo viên, suy nghĩ về bài toán và giải

bài toán bằng nhiều cách là một hướng đi có hiệu quả để tổng quát hoặc đặc biệt hóa, liên hệ với những

bài tập cùng dạng, điều này góp phần hỗ trợ phát triển các bài tập hay và mới cho học sinh.

Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách

giải để rèn luyện tư duy cho học sinh lớp 12 Trung học phổ thông ".

Hy vọng đề tài này sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học hóa học ở trường THPT.

2. Mục đích nghiên cứu

+ Rèn luyện tư duy cho học sinh lớp 12 trường Trung học phổ thông qua hệ thống bài tập hóa

học có nhiều cách giải.

+ Nâng cao hiệu quả dạy học hóa học 12 trường THPT.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu : Quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.

3.2. Đối tượng nghiên cứu : Hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải ở lớp 12 trường THPT.

4. Nhiệm vụ của đề tài

 Nghiên cứu cơ sở lý luận về nhận thức, về tư duy, về phương pháp dạy học tích cực và phương tiện

dạy học.

 Xây dựng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải theo chương trình lớp 12 trường THPT.

 Nghiên cứu, đề xuất phương pháp sử dụng hệ thống bài tập có nhiều cách giải một cách có hiệu quả

trong quá trình dạy học hóa học ở lớp 12 trường THPT.

 Thực nghiệm sư phạm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng hệ thống bài tập có nhiều cách giải để

rèn tư duy cho học sinh.

5. Giả thuyết khoa học

Nếu giáo viên sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải một cách tích cực và hợp lí sẽ

giúp cho học sinh mở rộng, đào sâu kiến thức, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học và như

vậy sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Nghiên cứu lí luận

+ Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài.

+ Nghiên cứu lí luận về nhận thức, về tư duy.

+ Nghiên cứu lí luận về đổi mới phương pháp dạy học và phương tiện dạy học.

6.2. Nghiên cứu thực tiễn

+ Điều tra tình hình sử dụng bài tập trong dạy học hóa học.

+ Trao đổi kinh nghiệm với giáo viên về cách sử dụng bài tập để rèn tư duy cho học sinh.

+ Thực nghiệm sư phạm.

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Sơ lược về lịch sử vấn đề nghiên cứu

Việc nghiên cứu các vấn đề về bài tập hóa học từ trước đến nay đã có nhiều công trình của các

tác giả như ở trong nước có GS.TS. Nguyễn Ngọc Quang nghiên cứu lý luận về bài toán; PGS. TS.

Nguyễn Xuân Trường nghiên cứu về bài tập thực nghiệm định lượng; PGS.TS. Lê Xuân Trọng,

PGS.TS. Đào Hữu Vinh, TS. Cao Cự Giác và nhiều tác giả khác quan tâm đến nội dung và phương

pháp giải toán hóa học... Tuy nhiên xu hướng hiện nay của lý luận dạy học là đặc biệt chú trong đến

hoạt động tư duy và vai trò của học sinh trong quá trình dạy học, đòi hỏi học sinh phải làm việc tích

cực, tự lực. Trong các công trình nghiên cứu trước đây, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách

có hệ thống về bài tập hóa học có nhiều cách giải, chỉ có một số bài báo của PGS.TS. Nguyễn Xuân

Trường trên tạp chí “Hóa học & Ứng dụng”, tác giả Vũ khắc Ngọc trên blog, và tác giả Huỳnh Văn Út

dưới dạng sách tham khảo và một số bài tập minh họa trong luận văn thạc sĩ của một số học viên cao

học. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một số bài tập hóa học có nhiều cách giải đơn lẻ hoặc một số bài tập

đơn giản.

1.2. Lý luận về dạy học

1.2.1. Đổi mới phương pháp dạy học

Định hướng đổi mới PPDH đã được nêu trong các Nghị quyết của Đảng và Luật giáo dục.

Luật giáo dục, năm 2005 đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích

cực, tự giác , chủ động , sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi

dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,

đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.

- Đổi mới phương pháp là một quá trình liên tục phát huy, kế thừa những tinh hoa của giáo dục

truyền thống và tiếp thu có chọn lọc những phương pháp hiện đại trên thế giới.

- Cần khuyến khích sự phong phú đa dạng của các phương pháp cũng như là sự phong phú đa

dạng của các ý tưởng.

- Trọng tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là hướng vào người học.

- Cái đích cuối cùng của việc đổi mới phương pháp là nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.

- Học là hiểu, ghi nhớ, liên hệ, áp dụng. Người sinh viên, học sinh giỏi là người sinh viên, học

sinh có tư duy tốt chứ không phải người sinh viên, học sinh chỉ biết thuộc bài.

- Người giáo viên giỏi không phải là cho sinh viên, học sinh biết nhiều kiến thức mà là dạy cho

sinh viên, học sinh biết cách tư duy, biết cách sử dụng những kiến thức vào các tình huống mới, vào

đời sống thực tế.

- Giáo viên chỉ dạy tốt khi có sự đồng cảm với sinh viên, học sinh.

- Những điều kiện để sinh viên, học sinh học tập có hiệu quả là sức khỏe, vốn kiến thức, khả

năng ghi nhớ, khả năng tư duy sáng tạo, phương pháp học tập, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho học

tập, có thầy giỏi.

Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đổi mới chương trình và SGK phổ thông mà trọng tâm là đổi

mới PPDH. Chỉ có đổi mới căn bản PP dạy và học thì mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong

giáo dục, mới có thể đào tạo lớp người năng động, sáng tạo.

1.2.2. Một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy học [3]

 Phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học. Chuyển trọng tâm hoạt động từ

giáo viên sang học sinh. Chuyển lối học từ thông báo tái hiện sang tìm tòi khám phá.

 Cá thể hóa việc dạy học.

 Sử dụng tối ưu các phương tiện dạy học đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin.

 Tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào đời sống. Chuyển từ lối học nặng về ghi nhớ kiến

thức sang lối học coi trọng việc vận dụng kiến thức.

 Cải tiến việc kiểm tra - đánh giá việc nắm vững kiến thức của học sinh.

 Phục vụ ngày càng tốt hơn hoạt động tự học và phương châm học suốt đời.

 Gắn dạy học với nghiên cứu khoa học với mức độ ngày càng cao (theo sự phát triển của học

sinh, theo cấp học, bậc học).

1.2.3. Dạy học hướng vào người học [3]

Cách gọi khác: “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”.

“Dạy học hướng tập trung vào học sinh”.

Sau đây là một số nội dung cơ bản của tư tưởng dạy học hướng vào người học :

- Mục đích dạy học vì sự phát triển nhiều mặt của học sinh :

 Coi trọng lợi ích, nhu cầu, hứng thú của người học.

 Phát huy cao nhất các năng lực tiềm ẩn của người học.

 Hình thành cho người học phương pháp học tập khoa học, năng lực sáng tạo, khả năng thích

ứng với môi trường…

- Phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học.

- Giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức mà quan trọng hơn là tổ chức ra những tình huống học

tập kích thích trí tò mò, tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, hướng dẫn học sinh học tập.

- Người học được tham gia vào quá trình đánh giá, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.

1.2.4. Dạy học bằng hoạt động của người học [3]

Nội dung cơ bản của xu hướng đổi mới phương pháp này là tạo mọi điều kiện cho học sinh hoạt

động càng nhiều càng tốt. Theo lối dạy học cũ, hoạt động của thầy chiếm phần lớn thời gian trên lớp.

Trò chủ yếu ngồi nghe một cách thụ động, rất ít khi tham gia vào hoạt động chung của lớp. Trò ít được

phát biểu, càng rất ít khi được thắc mắc, hỏi thầy những điều không hiểu hay chưa được rõ. Dạy như

thế kết quả học tập bị hạn chế rất nhiều. Người ta đã tìm cách làm giảm thời gian hoạt động của thầy và

tăng thời gian hoạt động của trò trong một tiết học. Với cách tiếp cận đó, thực chất của dạy học bằng

hoạt động của người học là chuyển từ lối dạy cũ (thầy nặng về truyền đạt, trò tiếp thu một cách thụ

động) sang lối dạy mới, trong đó vai trò chủ yếu của thầy là tổ chức, hướng dẫn hoạt động, trò chủ

động tìm kiếm, phát hiện ra kiến thức.

1.2.4.1. Ý nghĩa, tác dụng của dạy học bằng hoạt động của người học

- Dạy học bằng hoạt động của người học là một nội dung của dạy học hướng vào người học. Học

sinh chỉ có thể phát triển tốt các năng lực tư duy, khả năng giải quyết vấn đề, thích ứng với cuộc

sống… nếu như họ có cơ hội hoạt động.

- Dạy học bằng hoạt động của người học là một trong những con đường dẫn đến thành công của

người giáo viên.

- Dạy học bằng hoạt động của người học làm tăng hiệu quả dạy học.

- Dạy học bằng hoạt động của người học có ý nghĩa đặt biệt quan trọng khi rèn luyện các kỹ năng

dạy học cho sinh viên sư phạm vì kỹ năng chỉ có thể được hình thành qua hoạt động.

1.2.4.2. Những biện pháp để tăng cường hoạt động của người học

- Thầy gợi mở, nêu vấn đề cho trò suy nghĩ.

- Sử dụng câu hỏi dưới nhiều dạng khác nhau từ thấp đến cao.

- Thầy yêu cầu trò nêu câu hỏi về các vấn đề mà bản thân thấy không hiểu hay chưa rõ.

- Ra bài tập hay yêu cầu học sinh hoàn thành một nhiệm vụ học tập.

- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa.

- Tổ chức cho học sinh làm một vài thí nghiệm nhỏ.

- Thảo luận nhóm.

- Thuyết trình theo chủ đề.

- Tổ chức cho học sinh nhận xét, góp ý, tham gia vào quá trình đánh giá lẫn nhau.

- Câu lạc bộ hóa học.

1.3. Cơ sở lí luận về bài tập hóa học

1.3.1. Khái niệm về bài tập hóa học

Theo nghĩa chung nhất, thuật ngữ “bài tập” (tiếng anh) là “Exercise”, tiếng pháp là “Exercice”

và tiếng Nga là “Uprêjnêniê” dùng để chỉ một hoạt động nhằm rèn luyện thể chất và tinh thần (trí

tuệ).[24]

Theo từ điển tiếng Việt, bài tập là bài giao cho HS làm để vận dụng kiến thức đã học, còn bài

toán là vấn đề cần giải quyết bằng phương pháp khoa học.

Theo các nhà lý luận dạy học Liên Xô (cũ), bài tập bao gồm cả câu hỏi và bài toán, mà trong khi

hoàn thành chúng HS nắm được hay hoàn thiện một tri thức hoặc một kỹ năng nào đó, bằng cách trả lời

vấn đáp, trả lời viết hoặc có kèm theo thực nghiệm. Hiện nay ở nước ta, thuật ngữ “bài tập” được dùng

theo quan niệm này.

BTHH là một vấn đề không lớn mà trong trường hợp tổng quát được giải quyết nhờ những suy

luận logic, những phép toán và những thí nghiệm trên cơ sở các khái niệm, định luật, học thuyết và

phương pháp hóa học. [24]

Về mặt lý luận dạy học, để phát huy tối đa tác dụng của bài tập hóa học trong quá trình dạy học,

người giáo viên phải sử dụng và hiểu nó theo quan điểm hệ thống và lý thuyết hoạt động. Bài tập chỉ có

thể thực sự là “bài tập” khi nó trở thành đối tượng hoạt động của chủ thể, khi có một người nào đó

chọn nó làm đối tượng, mong muốn giải nó, tức là khi có một “người giải”. Vì vậy, bài tập và người

học có mối liên hệ mật thiết tạo thành một hệ thống toàn vẹn, thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau.

Sơ đồ cấu trúc của hệ bài tập: [12]

1.3.2. Tác dụng của bài tập hóa học

BTHH là một trong những phương tiện hiệu nghiệm cơ bản nhất để dạy học sinh tập vận dụng các

kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, sản xuất và tập nghiên cứu khoa học, biến những kiến thức đã

tiếp thu được qua bài giảng thành kiến thức của chính mình. Kiến thức sẽ nhớ lâu khi được vận dụng

thường xuyên như M.A. Đanilôp nhận định: "Kiến thức sẽ được nắm vững thực sự, nếu HS có thể vận

dụng thành thạo chúng vào việc hoàn thành những bài tập lý thuyết và thực hành".[12]

BÀI TẬP

Những điều kiện

Những yêu cầu

NGƯỜI GIẢI

Phép giải

Phương tiện giải

BTHH giúp cho học sinh đào sâu, mở rộng kiến thức đã học một cách sinh động, phong phú.

Chỉ có vận dụng kiến thức vào việc giải bài tập học sinh mới nắm vững kiến thức một cách sâu sắc.

BTHH là phương tiện để ôn tập, hệ thống hóa kiến thức một cách tốt nhất.

Thông qua bài tập hoá học, học sinh được rèn luyện các kỹ năng như kỹ năng viết và cân bằng

phương trình hóa học, kỹ năng tính theo công thức và phương trình hóa học, kỹ năng thực hành…

BTHH giúp rèn luyện tư duy, phát triển trí thông minh cho HS. Một số vấn đề lý thuyết cần

phải đào sâu mới hiểu được trọn vẹn, một số bài toán có tính chất đặc biệt, ngoài cách giải thông

thường còn có cách giải độc đáo nếu HS có tầm nhìn sắc sảo. Đặc biệt là những bài tập có nhiều cách

giải, yêu cầu HS giải bằng nhiều cách có thể có - tìm ra cách giải ngắn nhất, hay nhất - đó là một

phương pháp rèn luyện tư duy cho học sinh. Vì rằng giải một bài toán bằng nhiều cách dưới các góc độ

khác nhau thì khả năng tư duy của HS tăng lên gấp nhiều lần so với giải bài toán bằng một cách và

không phân tích, mổ xẻ đến nơi đến chốn.

- BTHH còn được sử dụng như một phương tiện để nghiên cứu tài liệu mới (hình thành khái

niệm, định luật). Khi trang bị kiến thức mới, giúp HS tích cực, tự lực, lĩnh hội kiến thức một cách sâu

sắc và bền vững.

- BTHH còn làm chính xác hóa các khái niệm, định luật đã học.

- BTHH phát huy tính tích cực, tự lực của HS và hình thành phương pháp học tập hợp lý.

- BTHH còn là phương tiện để kiểm tra - đánh giá kiến thức, kĩ năng của HS một cách chính xác.

- Giáo dục đạo đức, tác phong như rèn tính kiên nhẫn, trung thực, chính xác, khoa học và sáng

tạo, phong cách làm việc khoa học (có tổ chức, kế hoạch, …) nâng cao hứng thú học tập bộ môn, điều

này thể hiện rõ khi giải bài tập thực nghiệm.

Trên đây là một số tác dụng của BTHH, nhưng cần phải khẳng định rằng: Bản thân BTHH chưa

có tác dụng gì cả. Không phải một BTHH "hay" thì luôn luôn có tác dụng tích cực ! Vấn đề phụ thuộc

chủ yếu là "người sử dụng" nó, phải biết trao đúng đối tượng, phải biết cách khai thác triệt để mọi khía

cạnh có thể có của bài toán, để học sinh tự tìm ra lời giải. Lúc đó BTHH mới thực sự có ý nghĩa và

phát huy được hết tác dụng của nó.

1.3.3. Phân loại bài tập hóa học

Vì tầm quan trọng của bài tập đối với quá trình dạy học mà các thầy (cô) giáo hết sức quan tâm

đến việc biên soạn hệ thống bài tập. Hiện nay sách bài tập được sử dụng trong nhà trường rất đa dạng

và phong phú nên việc phân loại là rất khó khăn. Tuy nhiên với mục đích nghiên cứu quá trình tư duy

hóa học nhằm rèn luyện tư duy cho HS chúng tôi tạm phân ra làm hai loại sau :

 Bài tập cơ bản (BTCB)[12]

Là loại bài tập để tìm được lời giải chỉ cần thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho và cái

cần tìm dựa vào một vài đơn vị kiến thức đơn giản.

 Bài tập phức tạp (bài tập gồm nhiều đơn vị cơ bản)[12]

Là loại BT mà quá trình giải phải thực hiện một chuỗi các lập luận logic, giữa cái đã

cho và cái cần tìm thông qua một loạt các bài toán trung gian. Bài toán trung gian là một bài

toán cơ bản. Để giải quyết một bài toán không cơ bản thì học sinh phải giải thành thạo các bài

toán cơ bản và phải nhận ra quan hệ logic, mật thiết của bài toán thông qua quan hệ logic sơ

đẳng. Trong thực tế dạy học, GV không làm cho HS hiểu trọn vẹn một vấn đề, một bài toán, một

quá trình suy luận (vì những lí do khách quan và chủ quan khác nhau) thông qua những câu hỏi

"tại sao ?". Về phía mình, HS cũng không biết đặt câu hỏi này, cuối cùng là đã hạn chế một cách

đáng kể quá trình nhận thức, khả năng giải quyết vấn đề và tư duy hóa học của HS.

1.3.4. Các phương pháp giải bài tập hóa học

1.3.4.1. Phương pháp bảo toàn khối lượng

Nguyên tắc : Trong các phản ứng hóa học, tổng khối lượng của các chất tham gia phản ứng

bằng tổng khối lượng các sản phẩm tạo thành ( không tính khối lượng của phần không tham gia phản

ứng).

Ví dụ : Cho 22,4 gam hỗn hợp Na2CO3, K2CO3 tác dụng vừa đủ với dung dịch BaCl2. Sau phản

ứng thu được 39,4 gam kết tủa. Lọc tách kết tủa, cô cạn dung dịch thu được m gam muối clorua. Giá trị

của m là

A. 2,66. B. 22,6. C. 26,6. D. 6,26.

Hướng dẫn giải

Cách 1 : Thông thường các em HS giải bằng cách viết 2 phương trình và dựa vào dữ kiện đã cho lập hệ

pt để giải :

BaCl2 + Na2CO3 → BaCO3 + 2NaCl

x x 2x (mol)

BaCl2 + K2CO3 → BaCO3 + 2KCl

y y 2y (mol)

Ta lập hệ pt :

Khối lượng muối thu được là NaCl và KCl :

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!