Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Văn hóa và con người Việt Nam hiện nay- mấy suy nghĩ từ thực tế
PREMIUM
Số trang
327
Kích thước
16.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
840

Văn hóa và con người Việt Nam hiện nay- mấy suy nghĩ từ thực tế

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

GS,TS ĐINH XUÂN DŨNG

VĂNtìQA

& EBH NetfỀỈI VIỆT NAM

tllỆN NAY

^^ìĩlãÁỷ siu ỷ n aẮ Ì/tứ ứ iự o tiền /

1 NHÀ XUẤT BẢN

luBLisHER THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

GS,TS ĐINH XUẨN DŨNG

- Sinh ngày 3-4-1945;

- Nguyên quán: Thanh Khai,

Thanh Chương, Nghệ An;

- Từ 1966 - 1975: Cán bộ giảng

dạy Khoa Ngữ văn, Đại học

Tổng hợp Hà Nội;

- Từ 1975 - 1999: Công tóc

trong quân đội. Trưởng phòng

Văn nghệ quân đội (1988) kiêm

Đoàn trưởng Đoàn Ca múa

quân đội, Phó Cục trưởng Cục

Tuyên huấn Quân đội (1990 -

1998), Phó Chủ nhiệm Chính trị

Quân khu 4 (Bộ Quốc phòng);

Từ năm 1999 đến nay: Vụ

trưởng Vụ Văn hóa; Vụ trưởng

Vụ Xuất bđn; ủy viên Thường

trực, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý

luận, phê bình văn học, nghệ

thuật Trung ương (khóa III); ủy

viên Hội đồng Lý luận Trung

ương; ủy viên Hội đồng Chức

danh giáo sư (liên ngành Vởn

hóa, nghệ thuật, thể dục thể

thao); Nhờ văn; Nhò báo;

GS,TS ĐINH XUÂN DŨNG

VĂN4ÌŨA & EŨN NEứỀA VIỆT NAM NIỆN NAY

^yỵỈMÁỷ s m ỷ n ẹ Á Á / t ừ ' ứ i ự o tẦ ền/

NHÀ XUẤT BẢN THÔNG TIN VÀ TRUYẾN t h ô n g

Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Q uốc gia Việt Nam

ĐINH XUÂN DŨNG

VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY - MẤY SUY NGHĨ TỪ THỰC TIỄN

/ĐINH XUÂN DŨNG.

- H. ; Thông tin và Truyền thông, 2016. - 332tr. ; 24cm

ISBN 9786048018092

2. Việt Nam

TIM0004p CIP

1. Văn hóa

306.09597 - dc23

LỜI GIỚI THIỆU

^ £ h sử của nhân loại nói chung và lịch sử của dân tộc

'Việt Nam nói riêng đã chứng minh rằng, văn hóa

luôn gắn liền với cuộc sống của con nguời và sự phát triển của

xã hội. Văn hóa không chỉ là động lực của sự phát triển kinh

tế - xã hội mà còn là một nhân tố quan trọng tạo nên sự phát

triển bền vững của đất nước, của dân tộc. Văn hóa là một trong

bốn trụ cột của phát triển bền vững, có mối quan hệ chặt chẽ

và có vị trí, vai trò ngang hàng với kinh tế, chính trị và môi

trường (hiểu theo nghĩa rộng, trong đó, xã hội là một thành tố

quan trọng).

Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố văn hóa và

con người Việt Nam luôn được phát huy, tạo nên sức mạnh to

lớn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành và bảo vệ độc lập

dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ngày

nay, những nhân tố đó tiếp tục đóng vai trò là động lực thúc

đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ta

phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Qua 30 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về văn

hóa đã có bước phát triển quan trọng, trở thành cơ sở khoa học

chỉ đạo thực tiễn xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt

Nam. Từ năm 1986, tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng quan

điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, Đảng ta đi tới quan

điểm giản dị nhưng sâu sắc: Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của

đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất

nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm

làm giàu đẹp cuộc sống; Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự

phát triển. Đó là tầm nhìn sâu, mới, toàn diện, bao quát hơn

về vai trò của văn hóa, tạo điều kiện để văn hóa phát triển đa

dạng, phong phú, gắn bó mật thiết với mọi mặt đời sống. Vì

vậy, sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người đã đạt

được nhiều kết quả quan trọng. Đó là nền văn hóa đa dạng,

phong phú, có khả năng chiếm lĩnh các mặt khác nhau của

đời sống xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận rằng, văn

hóa đã và đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém và mặt trái của

nền kinh tế thị trường đang tác động tiêu cực tới sự phát triển

văn hóa và con người Việt Nam. Một trong những biểu hiện rõ

rệt của xu hướng này là sự suy giảm về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống của không ít người, thậm chí, một số cán bộ, đảng

viên thoái hóa, biến chất...

Trong dịp cả nước đang tổ chức học tập, quán triệt và

triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Chính phủ đang

triển khai Chương trình hành động số 102/NQ-CP thực hiện

Nghị quyết số 33/NQ-TVV về xây dựng và phát triển văn

hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước, tôi hoan nghênh Nhà xuất bản Thông tin và

Truyền thông đã kịp thời ra mắt bạn đọc tác phẩm Văn hóa và

con người Việt Nam hiện nay - Mấy suy nghĩ từ thực tiễn của

GS, TS Đinh Xuân Dũng.

Mỗi bài viết trong tác phẩm là một sự tìm tòi, là trăn trở và

suy ngẫm của tác giả về những vấn đề nóng bỏng, mang tính

lý luận và thực tiễn sâu sắc trong đời sống văn hóa, văn học.

nghệ thuật nước nhà hôm nay. Với tư liệu phong phú, dẫn

chứng sinh động, lối hành văn giản dị mà khúc chiết, sâu sắc,

tác phẩm đã khẳng định: phát triển văn hóa phải luôn đi cùng

sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để

phát triển văn hóa. Có thể nói, tác phẩm thực sự là một tài liệu

có giá trị về lý luận, thiết thực trong việc nghiên cứu, tìm hiểu

về văn hóa, văn học, nghệ thuật Việt Nam đương đại.

Xin chúc mừng những đóng góp mới của Giáo sư cho kho

tàng lý luận văn hóa, văn học, nghệ thuật nước nhà.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 2016

TS TRƯƠNG MINH TUẤN

ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông

Phần thứ nhất

vm H ố ẫ m m u m ^ ềi

NHỮNG NỘI DƯNG cơ BẢN V Ề VĂN HÓA

TRONG HIẾN PH Á P Nước CỘNG HÒA

X Ã HỘI CHỦ NGHĨA V IỆT NAM (SỬA Đổl)<‘>

V;'ăn hóa là một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong

phú và đa dạng, hiện diện và thấm sâu trong toàn

bộ đời sống xã hội và đòi sống con người. Vì thế, có rất nhiều

cách hiểu và khai thác khác rứiau về văn hóa. Là đạo luật gốc,

đạo luật cơ bản của nhà nước, khi đề cập về lĩnh vực đặc thù

này, Hiến pháp (sửa đổi) phải dựa trên truyền thống văn hóa

lâu đời của dân tộc, dựa trên quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, của Đảng ta về văn hóa, dựa trên thực tiễn xây dựng

văn hóa thời gian qua và những yêu cầu phát triển văn hóa

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiến pháp

phải thể hiện được những nội dung cốt lõi, cơ bản và sâu xa

nhất của văn hóa, trình bày ở dạng cô đúc và hàm súc nhất. Vì

văn hóa là chính nó (một lĩnh vực cụ thê), đồng thời thấm sâu

vào tất cả các lĩnh vực khác, cho nên tìm hiểu nội dung văn

hóa trong bản Hiến pháp này không chỉ dừng lại ở một điều

cụ thể (Điều 60) mà cần phải tìm thấy trong rất nhiều những

điều quan trọng khác. Đó là một đặc điểm riêng của nội dung

văn hóa trong bản Hiến pháp này.

1. Văn hóa trong mối quan hệ với các lĩnh vực quan trọng

của đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng địrửì, trong

công cuộc kiến thiết nước nhà, có 4 vấn đề quan trọng cùng

phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau, đó là: chính trị.

Báo Nhân dân, 2014.

T hẩn thứ nhắt: V ăn' hàa ơà a m n^ưài

kinh tế, văn hóa, xã hội. Tư tưởng đó đã được vận dụng triệt

để trong Hiến pháp. Điều 14 của Hiến pháp (sửa đổi) chỉ ra

rằng, "ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền

con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn

hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo

Hiến pháp và pháp luật". Khoản 2 của Điều 16 lại khẳng định:

"Không ai bị phân biệt đối xử trong đòi sống chính trị, dân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội". Đây là một sự khẳng định dứt khoát

vị trí của văn hóa trong sự phát triển của đất nước và con

ngưòi. Tư tưởng đó xuyên suốt trong toàn bộ bản Hiến pháp

này. Chính vì thế, khi Hiến pháp (sửa đổi) khẳng định: "Nhà

nưóc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công

nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền

công dân" thì nội dung được khẳng định chính là những giá trị

văn hóa cao đẹp nhất: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh

phúc, có điêu kiện phát triển toàn diện" (Điều 3). Những giá trị

trên chính là giá trị văn hóa cốt lõi, đồng thời là mục tiêu văn

hóa cao nhâ't mà chủ nghĩa xã hội cần đạt tói, được Hiến pháp

khẳng địrứi về chính trị và pháp lý.

2. Không chỉ là một lĩnh vực quan trọng, được coi trọng

ngang bằng với kinh tế, chính trị và xã hội mà văn hóa còn

thấm sâu vào các lĩnh vực đó. Tư tưởng này được thể hiện cô

đúc trong nhiều điều của Hiến pháp (sửa đổi).

Trước hết, trong quan hệ của văn hóa với kinh tế, trong các

điều mục về kinh tế, Điều 50 của Hiến pháp (sửa đổi) chỉ ra nội

dung cốt lõi định hưóng phát triển kinh tế ở Việt Nam. Cùng

với những yêu cầu "xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát

huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, bảo vệ môi trường, thực

hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", có một xệu câu

10 ĐINH XUÂN DŨNG

'Văn fiéa D à can ngưàì "Việt 'Mmi ũiện naỵ - 'Máỵ mỵ ngÂĩ từ íấực tiỂn

mới so với Hiến pháp 1992. Đó là kinh tế phải "gắn kết chặt chẽ

với phát triển văn hóa, thực hiện tiến hộ và công bằng xã hội". Như

vậy, văn hóa trở thành naột thành tố hữu cơ, đảm bảo cho sự

phát triển toàn diện và ben vững của kinh tế. Đây là một quy luật

trong sự phát triển kinh tế thời kỳ hiện đại, đồng thời là một

bài học thực tiễn sâu sắc trong xây dựng và phát triển kinh tế ở

nước ta thời gian qua. Chúng ta có tăng trưởng kinh tế nhưng

chưa có sự phát triển cân đối, tương xiing và hài hòa với văn

hóa, vì thế, thiếu sự phát triển bền vững, không chỉ của bản

thân kinh tế mà của đất nước nói chung. Nội dung văn hóa

này đã được bàn bạc rất kỹ trong điều đầu tiên về định hướng

phát triển kinh tế (Điều 50). Đó là kết quả của tổng kết thực

tiễn và là một bước phát triển của tư duy kỉnh tế của. chúng ta

được thể hiện trong bản Hiến pháp (sửa đổi).

Trong quan hệ giữa văn hóa với chính trị, có 2 nội dung

cực kỳ quan trọng. Đó là về Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà

nước Việt Nam, hai thành tố quan trọng nhất trong hệ thống

chính trị của nước ta. ớ Khoản 1, Khoản 3 Điều 4, Hiến pháp

(sửa đổi) khẳng định cơ sở chính trị và pháp lý vai trò lãnh

đạo nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng

thời yêu cầu các tổ chức Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản

Việt Nam "hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp

luật". Nội dung này là sự tái khẳng định về chính trị, pháp lý

của Hiến pháp 1992 và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Cái

mới của Hiến pháp (sửa đổi) là ở Khoản 2 của Điều 4. Nếu 2

Khoản trên (1 và 3) xác định sự lãnh đạo nhà nước và xã hội

của Đảng thì Khoản 2 khẳng định yều cau vãn hóa rất cao đối với

sự lãnh đạo đó: "Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với

Nhân dãn, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu

trách nhiệm trước Nhân dân ve những quyết định của mình", ở

'Phần ứiứ nầát: "Văỉi Ễâu (ìà m n riffưầi

đây, hình như cơ sở chính trị, pháp lý lùi về phía sau mà nổi

bật lên chính là những đòi hỏi rất cao về các giá trị văn hóa của

Đảng. Những giá trị văn hóa này, xét đến cùng, có tác dụng

sâu sắc củng cố niềm tin của toàn dân tộc đối với sự lãnh đạo

của Đảng, đồng thời cũng là một thách thức gay gắt đối với

Đảng cầm quyền. Đánh mất giá trị văn hóa này sẽ ảnh hưởng

nặng nề đến uy tín và từ đó đến bản thân sự lãnh đạo và cầm

quyền của Đảng trong xã hội hiện đại. Kinh nghiệm thời sự

của một SỐ đảng bị mất quyền lãnh đạo trong thế kỷ XX vừa

qua, có lẽ xuất phát từ một trong những nguyên nhân, chính

là sự băng hoại các giá trị văn hóa trong Đảng. Giá trị đó chính là

sự gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm

trước rủìân dân về các quyết định của mình.

Trong quan hệ với cơ quan nhà nước, cán bộ công chức,

viên chức nhà nước, Hiến pháp (sửa đổi) nhấn mạnh những

yêu cầu văn hóa và những giá trị văn hóa đạo đức. Đó là "phải

tôn trọng Nhân dần, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ

với Nhân dân, lắng nghe ý kiên và chịu sự giám sát của Nhân dãn"

(Điều 8). Những giá trị văn hóa này là điều kiện quyết định

đảm bảo cho uy tín, quyền lãnh đạo, quản lý của cơ quan nhà

nước. Việc nhấn mạnh những giá trị đó xuất phát từ quan

điểm khẳng định, nhà nước của chúng ta là của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân, đồng thời cũng từ tổng kết thực tiễn

khi nghiêm khắc chỉ ra những căn bệrữi xa rời, sách nhiễu, cửa

quyền đối với nhân dân của một số cơ quan, một bộ phận cán

bộ, công chức, viên chức nhà nước. Có thể nhận thấy, các nội

dung trên vừa xác định cơ sở chính trị - pháp lý, đồng thời

nhấn mạnh những giá trị văn hóa đối với đời sống chính trị

của nhà nước ta. Phải chăng đó là một nội dung độc đáo của

Hiến pháp (sửa đổi).

ĐINH XUÂN DŨNG

Vãn V ãn Aén líà can ngưM Việt l>íam Aiện noịf - ‘Mảỵ Iựjfầĩ từ tẳực tiên Aáa, lùL Cũn ìựu

3. Một bước phát triển mới của Hiến pháp (sửa đổi) là

khẳng định dứt khoát quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ

bản của công dân. Trong tất cả các quyền đó, Hiến pháp (sửa

đổi) luôn luôn đề cập đến quỳên văn hóa với những nội dung

phong phú, toàn diện, ở Điều 20, cùng với việc khẳng định

quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về sức khỏe là sự nhấn

mạnh đến pháp luật phải bảo vệ đanh dự và nhân phẩm của con

người. Đây là hai giá trị văn hóa sâu sắc và cao đẹp nhất mà

dân tộc ta và loài người đấu tranh và bảo vệ đến cùng. Khẳng

định hai giá trị văn hóa danh dự và nhân phẩm thể hiện sâu

sắc ý nghĩa nhân văn của Hiến pháp (sửa đổi). Điều 25 khẳng

địrủì: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,

tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện

các quyền này do pháp luật quy định". Đây là những quyên

vãn hóa cơ bản, cụ thể và thiết thân đối với một xã hội hiện đại

mà mọi công dân đều có quyền thực hiện theo Hiến pháp và

pháp luật. Tại Khoản 2 của Điều 37, khi nói về thanh niên,

Hiến pháp (sửa đổi) xác định: "Thanh niên được Nhà nước,

gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát

triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truỳên thống dân tộc, ý

thức công dân". Tất cả những nội dung này đều là những giá

trị văn hóa sâu sắc đối với sự phát triển của thanh niên, tạo

nên những giá trị cốt lõi trong nhân cách thanh niên Việt Nam

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều 41,

khi nói về quyền của mọi người, Hiến pháp (sửa đổi) khẳng

định dứt khoát rằng: "Mọi người có quyền hưởng thụ và tiêp

cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các

cơ sở văn hóa". Đây là một nội dung sâu sắc, dành riêng cho

văn hóa, khẳng định những quyền cơ bản về văn hóa của con

người bao gồm các khâu sáng tạo, hưởng thụ, tiêp cận, tham gia,

‘PỄần tỀứ rứiắt: V ă n Héa oà can rựỊiiầi

sử dụng các sản phẩm, công trình, cơ sở văn hóa. Thiếu nó không

thể hoàn thiện những yêu cầu về đảm bảo quyền con người

trong xã hội hiện đại.

4. Đất nước chúng ta là một đất nước đa dân tộc. Vì vậy,

khẳng định văn hóa của các dân tộc là một yêu cầu dứt khoát

trong Hiến pháp (sửa đổi). Mặt khác, người Việt Nam định cư

ở nước ngoài là “bộ phận không tách rời của cộng đồng dân

tộc Việt Nam". Với hai đặc điểm đó, Hiến pháp (sửa đổi) nhấn

mạnh yêu cầu và nội dung văn hóa của các dân tộc và của

ngưòi Việt Nam định cư ở nước ngoài. Khoản 3 của Điều 5 xác

định: "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản

sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và vãn hóa

tốt đẹp của mình". Nội dung này mang ý nghĩa chính trị - pháp

lý và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Có nghĩa là, các dân tộc trên đất

nước Việt Nam có những quyền văn hóa trên, đồng thời, nhà

nước phải đảm bảo thực hiện quyền đó một cách triệt để, sâu

sắc và toàn diện. Điều 18, khi nói về người Việt Nam định cư

ở nước ngoài, Khoản khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người

Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương,

góp phần xây dựng quê hương, đất nước". Đây là những nội dung

và giá trị văn hóa cốt lõi nhất đối vói người Việt Nam định

cư ở nước ngoài được Hiến pháp (sửa đổi) đảm bảo một cách

minh bạch và dứt khoát.

5. Trong Hiến pháp (sửa đổi) có 3 điều (60, 61, 62) bàn

trực tiếp về các lĩnh vực của văn hóa. Do tầm quan trọng của

giáo dục và khoa học, công nghệ, Hiến pháp (sửa đổi) đã dành

riêng Điều 61, 62 cho hai lĩnh vực này. Thực chất hai lĩnh vực

này cũng thuộc về văn hóa với ý nghĩa rộng lớn và sâu xa của

ĐINH XUÂN DŨNG

V ăn Ểéa lià can Ìĩgưàì Việt 'Nam Aiện naỵ - 'Mấụ snịf nfffiĩ M tấựo tiên

nó như quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Riêng Điều 60

bàn trực tiếp về định hướng phát triển văn hóa và một số lĩnh

vực quan trọng của văn hóa. ớ Điều này, so với Hiến pháp

1992, có một số nội dung rất mới. ít ai chú ý đến một từ được

bổ sung so vói Hiến pháp 1992. Đó là từ "xã hội". Hiến pháp

1992 chỉ xác định nhà nước chăm lo xây dựng và phát triển

văn hóa. Hiến pháp (sửa đổi) đã bổ sung: Nhà nước, xã hội

chăm lo xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật,

hệ thống thông tin đại chúng, xây dựng gia đình Việt Nam,

xây dựng con người Việt Nam. Bổ sung thêm từ "xã hội" thể

hiện sự tổng kết thực tiễn xây dựng văn hóa Việt Nam trong

nhiều năm qua, đồng thòi chỉ ra một quỵ luật khách quan cực

kỳ quan trọng đảm bảo cho sự phát triển của văn hóa. Mặc dù

vai trò chủ đạo, chủ thể quản lý văn hóa thuộc về nhà nước

nhưng chỉ có thể phát triển văn hóa mạnh mẽ, toàn diện khi

huy động được nhân lực, tài lực, vật lực của toàn xã hội, của

toàn dân. Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định mục tiêu và

tính chất của nền văn hóa Việt Nam "tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại", đồng thòi, trong

các lĩnh vực hết sức đa dạng của văn hóa cần phát triển toàn

diện, Hiến pháp (sửa đổi) nhấn mạnh 3 lĩnh vực sau đây; Một

là, Phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu câu đa dạng và

lành mạnh của Nhân dân; Hai là, phát triển các phương tiện thông

tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu câu thông tin của Nhân dân, phục

vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Ba là, tạo môi trường xây

dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiên bộ, hạnh phúc. Từ đó, Hiến

pháp (sửa đổi) đã chỉ ra mục tiêu cao nhất của sự phát triển

văn hóa là xây dựng con người Việt Nam trong thòi kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa với sáu chuẩn mực văn hóa cốt lõi: "có

sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý

Tỉiẩn tíỉứ nầát: Vđfi Ẻ ẻa aà a m ngưM

thức làm chủ, trách nhiệm công dân". Nếu tổng hợp nội dung

của 3 điều (60,61, 62), chúng ta nhận thấy, Hiến pháp (sửa đổi)

đề cập những vấn đề chủ yếu nhất của văn hóa Việt Nam thời

kỳ hiện đại.

6. Việc công bố Hiến pháp (sửa đổi) được sự đồng thuận

sâu sắc của tuyệt đại đa số đồng bào cả nước. Đó là một thắng

lợi lịch sử. Nhưng việc tuyên truyền, phân tích để nhận thức

đầy đủ về giá trị của nó là một công việc rất công phu và lâu

dài. Cùng với việc khẳng định giá trị chính trị - pháp lý của

Hiến pháp, cần phải đồng thời chỉ ra những giá trị văn hóa sâu

sắc của bản Hiến pháp (sửa đổi). {Bình ngô đại cáo của Nguyễn

Trãi, Tuyên ngôn độc lập của Hô Chí Minh là những kiệt tác,

chứa đựng ý nghĩa chírữi trị - pháp lý và giá trị văn hóa trong

sự thống nhâ't toàn vẹn của nó). Vì thế, trong công tác tuyên

truyền, cần làm rõ hon nữa tính thống nhất của các giá trị trên

trong Hiến pháp (sửa đổi). Hon nữa, từ sự phân tích nội dung

văn hóa trong bản Hiến pháp (sửa đổi), không chỉ dừng lại ỏ

yêu cầu nâng cao nhận thức mà đòi hỏi cao hơn là vận dụng

những nội dung văn hóa đó trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tô’

chức thực tiễn. Có thể thấy rằng, những nội dung văn hóa trình

bày ở trên, nếu nhận thức thực sự sâu sắc sẽ đòi hỏi Đảng, Nhà

nước và Nhân dân ta sự đổi mói mạnh mẽ, triệt để trong tư duy

về vãn hóa. Những yêu cầu về kinh tế gắn chặt vói phát triển

văn hóa, những đòi hỏi về giá trị văn hóa đối vói Đảng và Nhà

nước, những đảm bảo về quyền văn hóa của con người và

công dân Việt Nam, những yêu cầu về phát triển các lĩnh vực

văn hóa thòi kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải được

vận dụng trong toàn bộ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cả vĩ

mô và vi mô của sự phát triển đất nước. Tôi nhó, Lênin có nhắc

nhở rằng, để hoàn thành một nhiệm vụ kinh tế dù to lón bao

ĐINH XUÂN DŨNG

yãnẼM iciA canlyụiài Việt'N am ũiệnnay,- 'Máy iu ụ nýáltít tỂỊtc tiền

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!