Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Vận dụng các thử nghiệm cơ bản có ảnh hưởng đến kiểm toán tài chính tại công ty trách nhiệm hữu hạn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Lời mở đầu
Trong thời điểm hội nhập và phát triển kinh tế như hiện nay, việc công khai
hoá tài chính và tăng cường độ tin cậy của các thông tin tài chính đang là vấn đề cấp
thiết. Cơ quan quản lý Nhà nước dựa vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để
kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp đối với ngân
sách nhà nước đồng thời cũng giám sát được sự vận hành của nền kinh tế nước nhà.
Mặt khác, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp cũng phải được công khai cho
bên thứ 3 như các nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ và những người quan tâm đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp đề có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Muốn
vậy các báo cáo tài chính cần phải được kiểm toán để đảm bảo tính trung thực, hợp
lý của các số liệu trên báo cáo tài chính. Hơn thế nữa, nhu cầu về thông tin ngày
càng nhiều trong xu thế hội nhập quốc tế. Độ tin cậy, tính chính xác của thông tin
trở thành sức mạnh trong cạnh tranh kinh tế. Tất cả những lý do trên khẳng định
một nhu cầu cao về dịch vụ kiểm toán, khẳng định kiểm toán vừa là công cụ để Nhà
nước quản lý kinh tế, vừa hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và đúng
pháp luật.
Trong kiểm toán, thử nghiệm cơ bản được đánh giá là thử nghiệm then chốt và
cốt lõi vì nó đem lại những bằng chứng kiểm toán thích đáng giúp kiểm toán viên
đưa ra ý kiến về các thông tin tài chính của doanh nghiệp. Với tầm quan trọng đó
của thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán em đã lựa chọn đề tài: “VẬN DỤNG CÁC
THỬ NGHIỆM CƠ BẢN CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN KIỂM TOÁN
(AASC)” để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề gồm có 3 phần:
- CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM CỦA QUY TRÌNH VẬN DỤNG CÁC THỬ
NGHIỆM CƠ BẢN CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN KIỂM TOÁN
(AASC)
- CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC THỬ NGHIỆM CƠ BẢN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ
TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN KIỂM TOÁN (AASC) THỰC HIỆN
1
- CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VẬN
DỤNG CÁC THỬ NGHIỆM CƠ BẢN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH TẠI CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
KIỂM TOÁN (AASC) THỰC HIỆN
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Th.s Nguyễn Thị
Mỹ cùng sự chỉ bảo nhiệt tình của các anh chị kiểm toán viên trong thời gian
thực tập tại Công ty đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và kiến thức nên chuyên đề sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo từ phía
các thầy cô trong nhà trường và các anh chị trong AASC nhằm làm cho
chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM CỦA QUY TRÌNH VẬN DỤNG CÁC
THỬ NGHIỆM CƠ BẢN CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM
TOÁN TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ TƯ VẤN
TÀI CHÍNH KẾ TOÁN KIỂM TOÁN (AASC)
1.1. Khái quát của quy trình vận dụng các thử nghiệm cơ bản ảnh
hưởng đến kiểm toán báo cáo tài chính
Nguyên tắc chung của mọi cuộc kiểm toán tài chính là phải thẩm tra lại các
các thông tin biểu hiện bằng tiền phản ánh trên bảng tổng hợp bằng việc kết hợp các
phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ theo trình tự và cách thức kết
hợp xác định tổng hợp các cách xác minh các con số này được gọi là kiểm toán cơ
bản hay thử nghiệm cơ bản.
Cho dù thử ngiệm cơ bản là thử nghiệm then chốt và cốt lõi trong mọi cuộc
kiểm toán tài chính song không phải chúng được thực hiện trong mọi khoản mục
trong mọi quan hệ. Trên thực tế, các thông tin tài chính thường đã được xác minh
nhiều lần thông qua hệ thống tự kiểm tra (bao gồm kế toán và kiểm toán nội bộ) và
ngoại kiểm (Kiểm toán độc lập, Kiểm toán Nhà nước). Mối quan hệ này tạo khả
năng cho việc giảm tối đa các thử nghiệm cơ bản. Mặt khác, xét về nhu cầu, trong
nhiều cuộc toán cũng không đòi hỏi phải thực hiện số lớn các thử nghiệm cơ bản
nếu nghiệm thấy các thông tin trên bảng khai tài chính đáng tin cậy. Đồng thời, nhu
cầu về tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả kiểm toán nói riêng và hiệu quả quản
lý nói chung cũng đòi hỏi phải giảm tối đa những việc “lặp lại” không hiệu quả. Do
đó, trong kiểm toán tài chính đã hình thành kiểm toán tuân thủ hay thử nghiệm kiểm
soát. Thực chất của các thử nghiệm này là dựa vào kết quả của hệ thống kiểm soát
nội bộ khi hệ thống này tồn tại và hoạt động có hiệu lực. Để khẳng định sự tồn tại
và hiệu lực này cần khảo sát, thẩm tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Ở đây,
cần khẳng định nguyên lý chung là thử nghiệm kiểm soát chỉ thực hiện khi hệ thống
kiểm soát nội bộ tồn tại và được đánh giá là hoạt động có hiệu lực. Tuy nhiên, ngay
trong trường hợp này, thử nghiệm cơ bản (với số lượng ít) vẫn cần được thực hiện.
Trong trường hợp ngược lạ, hệ thống kiểm soát nội bộ của khách tể kiểm toán
không tồn tại hoặc hoạt động không hiệu lực thì kiểm toán tài chính sẽ không thực
hiện thử nghiệm kiểm soát. Khi đó, các thử nghiệm cơ bản sẽ được tăng cường với
3
quy mô đủ lớn để đảm bảo độ tin cậy vào các kết luận kiểm toán. Bản chất cũng
như số lượng của thử nghiệm cơ bản được biểu hiện qua việc kết hợp giữa các
phương pháp kiểm toán vào việc hình thành các trắc nghiệm.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 530 “Lấy mẫu kiểm toán và các
thủ tục lựa chọn khác” thì “thử nghiệm cơ bản bao gồm hai loại là thủ tục phân
tích và kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư. Thử nghiệm cơ bản chỉ liên quan
đến giá trị các khoản mục. Mục đích của thử nghiệm cơ bản là thu thập bằng chứng
để phát hiện các sai sót trọng yếu làm ảnh hưởng đến BCTC”.
Vậy có thể nói thử nghiệm cơ bản là thử nghiệm dùng để thu thập bằng chứng
về những sai lệch trọng yếu trong báo cáo tài chính, bao gồm thủ tục phân tích và
kiểm tra chi tiết.
Thủ tục phân tích là việc so sánh các thông tin tài chính, các chỉ số, các tỷ lệ
để phát hiện và nghiên cứu và các trường hợp bất thường như:
- So sánh thông tin tài chính giữa các kỳ, các niên độ hoặc so sánh thông tin
tài chính của đơn vị với thông tin trong nghành tương tự. Chẳng hạn so sánh tỷ lệ
giữa khoản phải thu và doanh thu bán hàng của đơn vị với tỷ lệ bình quân nghành.
- Nghiên cứu những mối quan hệ giữa các yếu tố thông tin tài chính, giữa
thông tin tài chính và thông tin không mang tính chất tài chính, chẳng hạn nghiên
cứu mối quan hệ giữa chi phí tiền lương với số lượng lao động
Mục tiêu chính của thủ tục phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán là so
sánh và nghiên cứu các mối quan hệ để giúp kiểm toán viên thu thập bằng chứng về
tính hợp lý chung của số liệu thông tin cần kiểm tra, đồng thời phát hiện khả năng
có sai lệch trọng yếu.
Kiểm tra chi tiết là việc kiểm tra trực tiếp các nghiệp vụ hay số dư, gồm có:
- Kiểm tra nghiệp vụ: là kiểm tra chi tiết một số ít hay toàn bộ nghiệp vụ phát
sinh để xem xét về mức độ trung thực của khoản mục. Loại kiểm tra này được sử
dụng khi số phát sinh của tài khoản ít, các tài khoản không có số dư hay trong
những trường hợp bất thường thủ tục này được thực hiện như sau:
Trước hết, kiểm toán viên chọn các nghiệp vụ cần kiểm tra sau đó kiểm tra
chit tiết các tài liệu, chứng từ của những nghiệp vụ đó; xem xét quá trình ghi chép
chúng qua các tài khoản; cuối cùng kiểm toán viên đánh giá để xác định số phát
sinh hay số dư cuối kỳ. Thí dụ, khi kiểm tra khoản mục tài sản cố định, kiểm toán
4
viên kiểm ra các nghiệp vụ phát sinh tăng, giảm trong kỳ và kết hợp với số dư đầu
kỳ để xem xét sự hợp lý của số dư cuối kỳ. Sở dĩ kiểm toán viên chọn phương pháp
này vì lượng nghiệp vụ phát sinh trong kỳ của khoản mục tài sản cố định tuy ít
nhưng số tiền của mỗi nghiệp vụ lại lớn có tính trọng yếu cao.
- Kiểm tra số dư: là kiểm tra để đánh giá về mức độ trung thực của số dư các
tài khoản có nhiều nghiệp vụ phát sinh. Thử nghiệm này được thực hiện bằng cách:
đầu tiên kiểm toán viên phân chia số dư ra thành từng bộ phận, hay theo từng đối
tượng sau đó chọn mãu để kiểm tra bằng phương pháp thích hợp. Thí dụ, đối với
Nợ phải thu khách hàng, kiểm toán viên yêu cầu đơn vị cung cấp số dư chi tiết trên
cơ sở đó lựa chọn các phần tử để gửi thư xác nhận.
Trong quá trình thực hiện các thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên thường phối
hợp giữa kiểm tra chi tiết và thủ tục phân tích. Đối với nhưng khoản mục trọng yếu
hoặc có rủi ro cao, kiểm toán viên cần mở rộng các thủ tục kiểm tra chi tiết để tăng
cường khả năng phát hiện sai lệch trọng yếu.
Trong một số trường hợp, cùng lúc kiểm toán viên còn có thể kết hợp thực
hiện thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản cho cùng một nghiệp vụ, phương
pháp này gọi là thử nghiệm kép hay, thử nghiệm đôi. Thí dụ kiểm toán viên chọn
mãy hóa đơn bán hàng để kiểm tra việc tính tiền trên hóa đơn có chính xác hay
không. Dưới góc độ thử nghiệm kiểm soáy, việc kiểm tra sẽ cho kiểm toán viên
bằng chứng về thử thục kiểm soát đối với việc tính tiền trên hóa đơn có hữu hiệu
không, thông qua việc so sánh giữa tỷ lệ sai phạm trong mẫu với tỷ lệ sai phạm
chấp nhận được. Dưới góc độ thử nghiệm cơ bản, việc kiểm tra giúp kiểm toán viên
ước tính số tiền sai lệch trong tổng thể thông qua số tiền sai lệch được phát hiện
trong mẫu.
1.2. Quy trình thiết kế và thực hiện thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán
báo cáo tài chính do Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán Kiểm
toán (AASC) thực hiện
A. Mục tiêu kiểm toán
Việc thiết kế các thử nghiệm cơ bản đòi hởi phải lựa chọn những thủ tục phù
hợp với mục tiêu kiểm toán và cân nhắc khi xác định nội dung, thời gian và phạm vi
của chúng để có thể thu thập được đầy đủ bằng chứng thích hợp
5
Trước hết để xây dựng các thử nghiệm cho từng khoản mục, chu trình ta cần
xác định được mục tiêu kiểm toán ứng với từng khoản mục và chu trình đó thông
qua các cơ sở dẫn liệu. Ta có sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình hình thành các mục tiêu kiểm toán của AASC
Từ những cơ sở dẫn liệu, người ta có nhiều cách để xây dựng hệ thống mục
tiêu kiểm toán. Dưới đây là cách xây dựng được áp dụng tại AASC:
Hiện hữu phát sinh
Kiểm toán viên có trách nhiệm thực hiện thu thập bằng chứng về sự hiện hữa
của các tài sản và công nợ bằng nhiều phương pháp khác nhau. Chẳng hạn đối với
tài mặt, hàng tồn kho, tài sản cố định hữu hình kiểm toán viên áp dụng kỹ thuật
kiểm tra vật chất. Với tiền gửi ngân hàng, hàng gửi bán, khoản phải thu, khoản phải
trả kiểm toán viên thực hiện thủ tục gửi thư xác nhận. Còn đối với tài sản vô hình,
tùy vào loại tài sản kiểm toán viên cần tính toán về các chi phí và so sánh xem nó có
tương ứng với lợi ích kinh tế có thể mang lại cho đơn vị trong tương lai hay không?
Riêng thu nhập và chi phí, kiểm toán viên cần xác minh xem các nghiệp vụ có
thực sự phát sinh và thuộc về đơn vị hay không, có đảm bảo tính đúng kỳ hay
không, doanh thu và chi phí có hợp lý hay không? Để xác minh được những điều
này kiểm toán viên có thể tiến hành bằng cách kiểm tra trực tiếp chứng từ gốc, hoặc
dựa trên mối quan hệ đối ứng để kiểm tra gián tiếp ở những tài khoản tài sản và
công nợ phải trả có liên quan.
6
Các báo cáo tài chính
Các bộ phần hợp thành của báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả kinh doanh…)
Cơ sở dẫn liệu của từng bộ phận hợp thành
Các mục tiêu kiểm toán của từng bộ phận hợp thành
Các mục tiêu kiểm toán đặc thù của từng bộ phận hợp thành
Quyền và nghĩa vụ
Đối với một số loại tài sản, quyền sở hữu đã được kiểm tra đồng thời với sự
hiện hữu như tiền gửi ngân hàng. Nhưng cũng có những tài sản mà sự hiện hữu và
quyền sở hữu không gắn liền với nhau, như đất đai, nhà xưởng, phương tiện vận
tải… Do đó, kiểm toán viên phải kiểm tra tính sử hữu cũng như chủ quyền thực sự
của đơn vị đối với tài sản, bằng các xem xét những chứng thư, hợp đồng mua bán
biên lai nộp thuế trước bạ… Còn đối với hàng tồn kho, lại phải xem xét đến các hợp
đồng mua bán, hợp đồng đại lý…
Riêng đói với nợ phải trả, kiểm toán viên cũng phải xem chúng có còn thực sự
là nghĩa vụ của đơn vị hay không bởi vì trong một số trường hợp đặc biệt tuy các
khoản nợ phải trả thật sự hiện hữa nhưng có thể chúng đã không còn là nghĩa vụ của
đơn vị.
Đầy đủ
Kiểm toán viên cần phải thu thập được những bằng chứng chứng minh là mọi
nghiệp vụ, tài sản, nợ phải trả đều được ghi chép và phản ánh đầy đủ trong báo cáo
tài chính. Vấn đề này khá phức tạp, và đòi hỏi kiểm toán viên phải sử dụng phối
hợp nhiều kỹ thuật kiểm tra để thu thập đầy đủ các bằng chứng, chẳng hạn như các
thủ tục sau:
- Kiểm tra gián tiếp tại những khoản mục có liên quan. Ví dụ như sự đầy đủ
của các khoản phải thu được kiểm tra thông qua chứng từ của bộ phận kinh doanh,
tiêu thụ.
- Dựa vào sự quan sát và kết quả kiểm kê để phát hiện những tài sản không
được phản ánh trên sổ sách.
- Sử dụng thủ tục phân tích để phát hiện ra những trường hợp bất thường, và
hoạch định chiều hướng kiểm tra. Thí dụ như tỷ lệ lãi gộp sút giảm bất thường có
thể đã xuất phát từ việc ghi thiếu doanh thu hay việc chi phí trong tháng tăng cao
bất thường so với các tháng khác.
- Kiểm tra các nghiệp vụ xảy ra một thời gian ngắn sau thời điểm khóa sổ (hay
còn gọi là thủ tục kiểm tra sau niên độ). Thủ tục này có thể giúp phát hiện những
nghiệp vụ tài sản hay công nợ của kỳ này nhưng lại ghi vào kỳ sau.
- Đối chiếu các tài liệu có liên quan với nhau. Ví dụ như đối chiếu sổ quỹ với
biên bản kiểm kê quỹ…
7