Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Từ ngữ xưng hô trong cộng đồng công giáo việt.
PREMIUM
Số trang
121
Kích thước
953.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1705

Từ ngữ xưng hô trong cộng đồng công giáo việt.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG

TỪ NGỮ XƯNG HÔ

TRONG CỘNG ĐỒNG CÔNG GIÁO VIỆT

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học

Mã số : 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng – Năm 2015

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN SÁNG

Phản biện 1: TS. Bùi Trọng Ngoãn

Phản biện 2: TS. Trương Thị Nhàn

Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn

tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn ngành Ngôn ngữ

học họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 06 tháng 12 năm 2015.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

 Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng

 Thư viện trường đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, từ ngữ xưng hô

(TNXH) là yếu tố đầu tiên mà các vai giao tiếp cần phải lựa chọn

để xác lập vị trí của mình. Do đó, sử dụng TNXH thích hợp

không chỉ giúp cuộc hội thoại được tiến hành mà còn ảnh hưởng

không nhỏ đến hiệu quả giao tiếp. Qua cách sử dụng TNXH, người

ta có thể biết được tình cảm, thái độ, mối quan hệ, trình độ học vấn

của các nhân vật tham gia giao tiếp.

1.2. Công giáo là một trong những tôn giáo khá phổ biến ở

Việt Nam và đồng hành cùng dân tộc, góp phần tạo nên sự phong

phú của văn hoá Việt. Từ ngữ xưng hô trong Công giáo cũng nằm

trong hệ thống TNXH của người Việt. Tuy nhiên, nó còn mang nét

đặc trưng riêng đậm sắc thái của tôn giáo và chủ yếu phổ biến trong

giao tiếp của những tín đồ Thiên Chúa giáo. Vì vậy, những người

ngoài tôn giáo này sẽ khó dùng đúng TNXH hoặc sẽ lúng túng trong

giao tiếp với người Công giáo và các vị có chức sắc trong Công

giáo.

1.3. Qua khảo sát bước đầu, chúng tôi nhận thấy vốn TNXH

được sử dụng trong cộng đồng Công giáo khá phong phú và đa dạng

cả về số lượng và nội dung ngữ nghĩa. Nó không chỉ dùng để “xưng”

và “hô” nhằm thể hiện mối quan hệ giữa các đối tượng khi giao tiếp

mà còn là phương tiện để biểu đạt tình cảm. Nhờ có nó mà nhịp cầu

giao cảm giữa đôi bờ tâm hồn được nối liền. Mặt khác, việc sử dụng

TNXH như vậy còn là cơ sở để đánh giá sự chuẩn mực trong lời nói,

cũng như sự lịch sự trong văn hóa giao tiếp của người Công giáo.

2

Vì lẽ trên, chúng tôi chọn đề tài: Từ ngữ xưng hô trong cộng

đồng Công giáo Việt làm luận văn thạc sĩ khoa học của mình. Mong

muốn của chúng tôi là góp phần tìm hiểu nhằm làm nổi bật vẻ đẹp

của từ ngữ xưng hô trong Công giáo nói riêng và vẻ đẹp của tiếng

Việt nói chung.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chủ yếu của luận văn là khảo sát, thống kê, phân loại

hệ thống TNXH trong Công giáo, chỉ ra đặc điểm cấu tạo ngữ pháp

và ngữ nghĩa của chúng, đồng thời nêu ra cách giao tiếp trong hệ

thống TNXH của Công giáo nhằm làm cho hệ thống xưng hô trong

giao tiếp của người Việt thêm phong phú và đa dạng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Lớp TNXH trong Công giáo là đối tượng nghiên cứu chính

của luận văn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về phạm vi các bình diện nghiên cứu: đối với lớp TNXH

trong Công giáo Việt, luận văn đi sâu phân tích, miêu tả, lý giải

những đặc điểm về ngữ pháp, ngữ nghĩa, phạm vi sử dụng và sự hoạt

động của chúng trong giao tiếp.

- Về phạm vi nguồn ngữ liệu khảo sát: luận văn chủ yếu

nghiên cứu đồng đại cách giao tiếp xưng hô của các thành viên trong

cộng đồng Công giáo ở Việt Nam hiện nay.

Ngoài ra, những chỉ dẫn về biệt ngữ Công giáo trong Từ điển

Công giáo 500 mục từ (Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2011, Nxb

Tôn giáo); Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1988, Nxb Giáo

dục), một số sách, báo, tạp chí có đề cập đến Công giáo cũng là

nguồn tư liệu khảo sát và tham khảo được sử dụng trong luận văn.

3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê, phân loại :

- Phương pháp miêu tả :

- Phương pháp luận quy nạp, diễn dịch, tổng hợp và phương

pháp logic:

5. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của Luận văn

gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài

Chương 2: Từ ngữ xưng hô trong Công giáo xét trên bình diện

cấu trúc ngôn ngữ

Chương 3: Từ ngữ xưng hô trong Công giáo xét trên bình diện

hoạt động giao tiếp

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

6.1. Về từ ngữ xƣng hô trong tiếng Việt

a. Những tác giả nước ngoài nghiên cứu về TNXH trong tiếng

Việt

- Alexandre de Rhodes với cuốn Từ điển Việt Nam - Bồ Đào

Nha - Latinh; M.B. Emeneau trong công trình Studies in Vietnamese

Grammar đã dành nhiều trang viết về TNXH tiếng Việt.

b. Những tác giả trong nước nghiên cứu về TNXH trong tiếng Việt

Tiêu biểu có các tác giả Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu Châu, Hữu

Quỳnh, Đinh Văn Đức, Lê Biên, Đỗ Thị Kim Liên, Phạm Trọng

Thưởng, Nguyễn Văn Chiến, Trương Thị Diễm … Nhìn chung,

điểm đồng nhất giữa các tác giả là đã xem xét TXH dưới góc độ đại

từ xưng hô, với chức năng thể hiện vai giao tiếp.

Ngoài ra, trên tạp chí chuyên ngành về ngôn ngữ học, nhiều

tác giả đã có những góc nhìn khác nhau về TXH trong tiếng Việt.

4

Bùi Minh Yến với l o ạ t b à i x ư n g h ô t r o n g g i a đ ì n h

n g ư ờ i V i ệ t n h ư “Xưng hô giữa vợ, chồng trong gia đình người

Việt”[37], “Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người

Việt”[38], “Xưng hô giữa ông, bà và cháu trong gia đình

người Việt”[39]; Hoàng Anh Thi [32] với “Về nhóm TXH thân tộc

trong tiếng Nhật và trong tiếng Việt', v.v.

6.2. Về từ ngữ xƣng hô trong Công giáo

a. Nghiên cứu về Công giáo:

Tiêu biểu có những công trình nghiên cứu sau: Nguyễn Hồng

Dương với “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam”;

Hội đồng Giám Mục Việt Nam (2004), Giáo lý Hôn nhân và Gia

đình; Cao Thế Dung (1988), “Công giáo Việt Nam trong dòng sinh

mệnh Việt Nam”; Trương Bá Cần (1996), “Công giáo Việt Nam

sau quá trình 50 năm 1945 – 1995”… Những công trình nghiên

cứu này đã đề cập đến lịch sử ra đời, văn hóa, nếp sống, phong tục

gắn với và có liên quan đến Công giáo, tạo nên bức tranh đa sắc

trong cộng đồng văn hóa Việt.

b. Nghiên cứu về từ ngữ xưng hô Công giáo

Bài viết Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc trong cộng

đồng Công giáo Việt” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống của tác giả

Trương Thị Diễm (2012), đã phần nào đề cập đến TXH trong Công giáo.

5

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. KHÁI NIỆM GIAO TIẾP

Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa giao

tiếp: sự thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã

nào đó [40, tr.101]; còn giao tiếp ngôn ngữ là hình thức giao tiếp cơ

bản và quan trọng nhất của xã hội loài người. Việt truyền đạt thông

báo được tiến hành qua những bước liên tục. quá trình này làm thành

hệ thống giao tiếp, bao gồm các thành tố nguồn phát tin, nguồn nhận

tin và mã (...). Về nguyên tắc, giao tiếp ngôn ngữ mang tính chất xã

hội. Để có thể giao tiếp được với nhau, con người phải có những mối

quan hệ nhất định với nhau, đó là quan hệ giao tiếp. Quan hệ giao

tiếp được xây dựng trên hệ thống các mối quan hệ xã hội nói chung,

trên cấu trúc xã hội đó, và trên các quan hệ giữa các giai cấp, tầng

lớp, hoặc nhóm người trong xã hội đó [40, tr.101-102].

1.2. VAI GIAO TIẾP

Sự phong phú trong các vai giao tiếp từ đó cũng tạo nên sự

phong phú trong cách xưng hô của mỗi cá nhân. Cho nên, như J.

Lyons nói “Vai giao tiếp chính là cương vị xã hội của một cá nhân

nào đó trong một hệ thống các quan hệ xã hội.Vai được hình thành

trong quá trình xã hội hóa các nhân vật” [24, tr 30]

Khi cá nhân tham gia vào hoạt động giao tiếp thì mang theo

các vai xã hội này vào quá trình giao tiếp, được chúng tôi gọi là vai

giao tiếp. Hoạt động giao tiếp phải được gắn liền với nhân vật giao

tiếp. Nhân vật giao tiếp gồm người nói (người phát tín hiệu) và

người nghe (người nhận tín hiệu) với tư cách chủ thể vai đại diện

cho nhóm xã hội nhất định.

6

1.3. XƢNG HÔ TRONG GIAO TIẾP

1.3.1. Khái niệm từ ngữ xƣng hô trong tiếng Việt

Theo Bùi Minh Yến, "Khái niệm xưng hô được ý thức như là

một hành vi ngôn ngữ có chức năng xác lập vị thế xã hội của

những người tham gia giao tiếp và tương quan tâm thế giữa họ

với nhau trong quá trình giao tiếp. Khi thực hiện chức năng này,

hành vi ngôn ngữ xưng hô đồng thời đảm nhận nhiệm vụ khởi sự tạo

sự tương tác ngôn ngữ cho cuộc thoại, điều chỉnh cuộc thoại theo

đích đã định, bảo đảm hiệu lực hành vi" [37, tr 17].

Tác giả Trương Thị Diễm cho rằng: “Từ xưng hô bao gồm các

từ, ngữ, các cấu trúc ngôn ngữ (trong đó từ đóng vai trò cơ bản)

được sử dụng để xưng hô giao tiếp” [15, tr.21]. Tác giả cũng đã lưu

lý rằng: “Từ xưng hô là những từ thuộc nhiều lớp từ loại của ngôn

ngữ được đưa ra sử dụng để “xưng” (tự quy chiếu) và “hô” (quy

chiếu vào người khác) [15, tr.22].

Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì xưng hô là “Tự

xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau để biểu thị

tính chất của mối quan hệ với nhau” [29, tr.1163].

1.3.2. Hệ thống từ ngữ xƣng hô trong tiếng Việt

a. Các đại từ nhân xưng

Hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Việt rất hạn chế về

số lượng. Điểm đặc biệt nữa là do "ý nghĩa liên cá nhân và ý nghĩa

biểu cảm trong các đại từ xưng hô của tiếng Việt quá đậm…nên

chúng chỉ được dùng trong ngữ vực thân tình với thái độ từ thân

mật đến suồng sã hoặc khinh rẻ".[5, tr. 76]. Điều này đã gây không ít

khó khăn, phức tạp cho người nước ngoài trong việc lựa chọn và sử

dụng từ xưng hô tiếng Việt khi giao tiếp.

7

b. Các danh từ thân tộc

Trong tiếng Việt, danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô

không chỉ được sử dụng trong gia đình mà còn được sử dụng rộng rãi

và chiếm ưu thế trong các mối quan hệ xã hội, giới nghiên cứu gọi đó

là xu hướng "gia đình hóa" các danh từ thân tộc trong xưng hô.

c. Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ

Trong tiếng Việt, khi giao tiếp, lớp từ chỉ nghề nghiệp (như: giáo

viên, bộ đội, công nhân, học sinh…) thường không đứng một mình.

Khác với từ ngữ chỉ nghề nghiệp, những từ ngữ chỉ chức

vụ có thể được dùng để xưng hô mà không phải thêm yếu tố hay

điều kiện nào.

d. Xưng hô bằng tên riêng

Trong tiếng Việt, cả ba yếu tố (họ + tên đệm + tên riêng) đều

có thể đứng độc lập làm từ xưng hô. Tuy nhiên, mức độ và phạm

vi sử dụng của chúng cũng khác nhau:

e. Những cách xưng hô khác

1.4. BIỆT NGỮ VÀ BIỆT NGỮ CÔNG GIÁO

1.4.1. Khái niệm biệt ngữ

Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa biệt ngữ là

“Các đơn vị ngôn ngữ (từ, ngữ, câu...) được sử dụng chủ yếu trong giao

tiếp hội thoại giữa các thành viên của một nhóm người nào đó, chung

nhau về đặc điểm nghề nghiệp, đặc điểm vị trí xã hội hoặc tuổi tác...

Người ngoài nhóm thường không hiểu được biệt ngữ'' [40, tr.25].

Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: Biệt ngữ (còn gọi là tiếng xã

hội) bao gồm các đơn vị từ vựng được dùng trong một tập thể xã

hội…chỉ là những đơn vị từ vựng “chồng” lên những đơn vị từ vựng

mà ngôn ngữ toàn dân đã có [6, tr.195].

8

1.4.2. Biệt ngữ Công giáo

Biệt ngữ Công giáo được hiểu là lớp từ vựng được sử dụng

trong cộng đồng Công giáo (tín đồ, linh mục, con chiên, ...).

1.5. CÔNG GIÁO VÀ CÔNG GIÁO VIỆT NAM

1.5.1. Khái quát về Công giáo

1.5.2. Khái quát về Công giáo Việt Nam

1.6. TIỂU KẾT

TNXH trong Công giáo là lớp từ vựng được sử dụng trong

cộng đồng Công giáo. Nhập vào dòng chảy của dân tộc, lớp TNXH

Công giáo đã ảnh hưởng ít nhiều đến hệ thống từ xưng hô trong

tiếng Việt và ngược lại từ ngữ xưng hô Công giáo cũng chịu ảnh

hưởng của hệ thống từ ngữ xưng hô tiếng Việt. Đó là nét đặc biệt thể

hiện đặc trưng văn hoá của Công giáo Việt Nam và nó cũng tạo nên

nét đặc trưng văn hoá trong hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp của

người Việt.

9

CHƢƠNG 2

TỪ NGỮ XƢNG HÔ TRONG CÔNG GIÁO XÉT TRÊN

BÌNH DIỆN CẤU TRÚC NGÔN NGỮ

2.1. TỪ NGỮ XƢNG HÔ TRONG CÔNG GIÁO XÉT TRÊN

BÌNH DIỆN NGỮ PHÁP

2.1.1. Từ ngữ xƣng hô trong Công giáo xét trên bình diện cấu

tạo

Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê), “Từ là đơn vị ngôn ngữ

nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, dùng để đặt câu”

[29, tr.1072].

TNXH trong Công giáo xét trên bình diện cấu tạo thì có cả hai

dạng là từ đơn và từ ghép.

a. Từ đơn

TNXH trong Công giáo có cấu tạo là từ đơn rất ít. Theo thống

kê của chúng tôi, có khoảng 20 từ đơn, chiếm 16,53% trong 121

TNXH thông dụng trong Công giáo.

b. Từ ghép

Với thống kê của chúng tôi, TNXH trong Công giáo là từ

ghép có 59 từ, chiếm 48,76% (trong tổng số 121 TNXH Công giáo)

* Nhóm từ ngữ xưng hô là từ ghép đẳng lập

Theo khảo sát thì TNXH trong Công giáo có 6 từ ghép đẳng

lập, chiếm 10,17% trong từ ghép.

Ví dụ : Thầy trò, ông bà, anh chị, anh em, huynh đệ, con cháu.

* Nhóm từ xưng hô là từ ghép chính phụ

Theo khảo sát, thống kê của chúng tôi, lớp từ ngữ xưng hô

trong Công giáo có 53 từ ghép chính phụ, chiếm 89,83% (trong 121

từ ghép xưng hô Công giáo).

10

c. Ngữ định danh

TNXH Công giáo không những có từ ghép đẳng lập, từ ghép

chính phụ mà còn có một số tổ hợp từ mang tính định danh, tức ngữ

định danh. Trong các ngữ định danh này, chúng tôi chỉ khảo sát 42 ngữ

định danh chuyên dụng, chiếm 34,71% trong 121 TNXH Công giáo,

Theo khảo sát thống kê, lớp TNXH trong Công giáo có 121 từ,

trong đó có 20 từ đơn, 59 từ ghép và 42 ngữ định danh. Xét về đặc

điểm từ loại, phần lớn các TNXH Công giáo được khảo sát là danh

từ; còn đại từ thì hạn chế. Xét về đặc điểm cấu tạo, sau khi thống kê

khảo sát nhóm TNXH trong Công giáo, chúng tôi thu được kết quả

như sau:

Bảng 2.4. Bảng tổng hợp TNXH Công giáo xét theo đặc điểm cấu tạo

Kiểu cấu tạo Số lƣợng Tỷ lệ

Từ đơn 20 từ 16,53 %

Từ ghép 59 từ 48,76 %

Ngữ định danh 42 từ 34,71 %

TỔNG 121 từ 100 %

2.1.2. Từ ngữ xƣng hô trong Công giáo xét trên bình diện từ

loại

a. Đại từ nhân xưng

Công giáo ở Việt Nam vẫn sử dụng các đại từ nhân xưng như

là một phương tiện dùng để xưng hô trong cộng đồng tôn giáo của

mình. Tuy nhiên, các đại từ này được sử dụng hạn chế.

b. Danh từ thân tộc

Các danh từ thân tộc được sử dụng nhiều trong cộng đồng

Công giáo. Chính tâm lý trọng tình nghĩa “trọng gần hơn xa” đã làm

cho thân tộc hóa trở thành khuynh hướng phổ biến trong giao tiếp

người Việt. Trong giao tiếp, người Công giáo cũng sử dụng rất nhiều

danh từ thân tộc như: Ông, ông Cụ, bà Cụ, cha, bố, dì, chị,…

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!