Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Từ ngữ biểu thị màu sắc trong ca dao người việt.
MIỄN PHÍ
Số trang
79
Kích thước
653.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1382

Từ ngữ biểu thị màu sắc trong ca dao người việt.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

----------

NGUYỄN THỊ DUNG

Từ ngữ biểu thị màu sắc trong ca dao

người Việt

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là đất nước có bề dày văn hiến lâu đời và đời sống tinh thần

phong phú. Màu sắc từ lâu đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được

của nền văn hóa. Từ nghệ thuật làm gốm sứ đến các dòng tranh dân gian, từ

trang phục dân tộc rực rỡ độc đáo đến những vàng son của cung điện đền

đài, đâu đâu cũng hiện diện vai trò của màu sắc, với những ý nghĩa, những

biểu tượng văn hóa gắn liền với truyền thống lịch sử của một quốc gia thuần

nông, yêu thiên nhiên, trọng nghĩa tình.

Màu sắc cũng như ngôn ngữ vậy, nó rất quan trọng nhưng vì hiện hữu

trong đời sống quá lâu và quá gần nên dường như chúng ta đã quên đi sự tồn

tại của nó như là một yếu tố không thể tách rời trong cuộc sống con người.

Thật là khó tưởng tượng ra cuộc sống của loài người sẽ đơn điệu như thế nào

nếu không có màu sắc. Vì thế giới tự nhiên và thế giới do con người tạo ra

chính là thế giới màu sắc. Màu sắc có tầm quan trọng trong đời sống thường

nhật, đồng thời nó cũng thể hiện đặc trưng văn hóa và quan niệm thẩm mĩ

của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc. Vì thế, màu sắc được xem là “nguồn khoái

cảm thẩm mĩ đặt ngang hàng với âm nhạc, văn học và nghệ thuật nói

chung”.

Bức tranh màu sắc đã được khắc họa khá đậm nét trong ca dao người

Việt. Chính những từ ngữ chỉ màu sắc đã góp phần tạo nên những hình

tượng thẩm mĩ tiêu biểu, làm nên vẻ đẹp đầy sức sống và đậm chất thuần

Việt của loại hình thơ ca dân gian đặc sắc này. Đặc biệt, đi sâu vào nghiên

cứu “Từ ngữ biểu thị màu sắc trong ca dao người Việt” sẽ cho chúng ta có

cái nhìn cụ thể hơn về những đặc điểm, chức năng, cách cấu tạo và cấp độ

3

của các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ tạo nên chỉnh thể màu sắc. Đồng

thời cũng cho ta thấy được mối quan hệ giữa nghệ thuật ngôn từ dân gian

với tâm thức của người Việt. Đó chính là lý do chúng tôi chọn “Từ ngữ biểu

thị màu sắc trong ca dao người Việt” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Ca dao là niềm tự hào to lớn của dân tộc Việt Nam. Được thử thách

qua không gian, thời gian và lòng người, được gọt dũa bởi hàng vạn nhà thơ

dân gian vô danh, ca dao đã trở thành những viên ngọc óng ánh trong kho

tàng văn học dân gian dân tộc. Có thể nói, hàng ngàn thế hệ người Việt Nam

không ai không thuộc ít hơn một câu ca dao. Điều đó cũng đủ để minh

chứng rằng ca dao đã đi sâu vào đời sống tinh thần và tâm hồn mọi người

dân đất Việt.

Ca dao đã trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm, tìm hiểu. Các nhà nghiên cứu đã đi vào phân tích và đánh giá ca

dao trên nhiều bình diện với những mức độ nông, sâu khác nhau.

Tiếp cận ca dao người Việt theo hướng thi pháp, Nguyễn Xuân Kính

trong cuốn Thi pháp ca dao đã nghiên cứu tương đối kỹ đặc điểm của văn

bản ca dao về phương diện kết cấu, không gian và thời gian nghệ thuật, một

số biểu tượng, thể thơ. Về phương diện ngôn ngữ ca dao, tác giả có đề cập

đến cách sử dụng và tổ chức ngôn ngữ với các phương thức biểu hiện, tạo

hình, chuyển nghĩa như ẩn dụ, cách dùng tên riêng chỉ địa điểm.

Phạm Thu Yến trong cuốn Những thế giới nghệ thuật ca dao đã triển

khai nghiên cứu thi pháp ca dao trên ba phần: ngôn ngữ và kết cấu, những

phương tiện diễn tả và biểu hiện trong thơ ca trữ tình dân gian, một vài tiểu

loại ca dao và những nguồn mạch ca dao trong văn học hiện đại. Về phương

diện ngôn ngữ và kết cấu, Phạm Thu Yến đã đề cập đến vấn đề “tính ngữ”

trong ca dao. Theo tác giả, tính ngữ trùng lặp thực chất là một dạng láy từ và

4

nhấn mạnh ý nghĩa của từ cần nói mà trong ca dao nó thiên về tính từ chỉ

màu sắc như: đen nhưng nhức, đen lay láy, trắng nõn nà…Tác giả cũng đặc

biệt chú ý đến đại từ nhân xưng trong ca dao: “So với thơ bác học, có lẽ chỉ

ở ca dao mới có cách sử dụng đại từ nhân xưng kèm theo tính từ chỉ rõ đặc

điểm của đối tượng được gọi: người thương, người ngoan, người nghĩa”.

[32, tr.225]

Lần đầu tiên trong nghiên cứu ca dao, Đặng Văn Lung đã khảo sát về

Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình trên phương diện hình ảnh, kết

cấu, ngôn ngữ. Tuy nhiên những nghiên cứu của tác giả cũng chỉ ở mức giới

thiệu bước đầu, dù vậy đây vẫn là một gợi ý tốt cho những nghiên cứu tiếp

theo.

Hoàng Trinh trong cuốn Từ ký hiệu học đến thi pháp học cũng đã chỉ

ra những đặc điểm liên quan đến việc tiếp cận tác phẩm ca dao theo hướng

cấu trúc như: tính mô thức, tính biến thể, tính liên văn bản, về hệ thống các

đơn vị từ, cụm từ, ngữ đoạn có khả năng tạo nghĩa và chuyển nghĩa.

Còn Vũ Ngọc Phan trong cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam lại đi

sâu vào nghiên cứu các biểu tượng và tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao. Tác giả

khẳng định rằng: “Người dân lao động Việt Nam đem hình ảnh con cò và

con bống vào ca dao, dân ca là đưa một nhận thức đặc biệt về khía cạnh của

cuộc đời vào văn nghệ, lấy cuộc đời của những con vật trên đây để tượng

trưng vài nét đời sống của mình, đồng thời cũng dùng những hình ảnh ấy để

khêu gợi hồn thơ”. [28, tr.99]

Nguyễn Phan Cảnh trong cuốn Ngôn ngữ thơ cũng đã đề cập đến

phương thức biểu hiện, tổ chức kép các lực lượng ngữ nghĩa hay phương

thức chuyển nghĩa của ngôn ngữ ca dao. Đặc biệt, khi đề cập đến phương

thức tổ chức ngôn ngữ ca dao, tác giả nhấn mạnh rằng: “Ca dao lấy việc

khai thác các đồng nghĩa lâm thời làm phương tiện biểu hiện cơ bản, nghĩa

5

là làm việc chủ yếu bằng hệ lựa chọn. Vì thế hình tượng ngôn ngữ ca dao

trước hết là những hình tượng ẩn dụ tính”. [2, tr.84]

Hoàng Kim Ngọc trong cuốn So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình

đã nghiên cứu một cách tỉ mỉ, có hệ thống về phép so sánh và ẩn dụ được s ử

dụng trong ca dao trữ tình người Việt, đặc biệt là nghiên cứu ẩn dụ ở cấp độ

phát ngôn câu. Nêu các quy tắc và đặc điểm về hình thái cấu trúc, ngữ nghĩa

của so sánh và ẩn dụ. Nghiên cứu về trầm tích văn hoá, ngôn ngữ qua so

sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình người Việt.

Triều Nguyên trong cuốn Bình giải ca dao cũng đã có cách “Tiếp cận

ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc”. Phương pháp

này xem tác phẩm ca dao chỉ có tính chất độc lập tương đối, mỗi tác phẩm

vừa có giá trị riêng vừa nằm trong một kiểu dạng, một nhóm nhất định, dùng

ca dao để hiểu ca dao. Tuy nhiên đó mới chỉ là những phác họa bước đầu có

quy mô thể nghiệm qua một số bài ca dao.

Lê Đức Luận trong cuốn Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt đã đi

sâu vào nghiên cứu cấu trúc ca dao trữ tình một cách toàn diện, bao quát và

cụ thể từ hình thức đến nội dung, từ đặc trưng văn bản đến các phương thức

tạo nên văn bản, từ ngôn ngữ đến văn hóa, từ hệ thống văn bản đến các đơn

vị ngôn ngữ làm ngôn liệu tạo nên văn bản. “Kho tàng ca dao người Việt lần

đầu tiên được xem xét dưới ánh sáng của lý thuyết hệ thống - cấu trúc ngôn

ngữ và nhờ phương pháp này những đặc trưng cơ bản nhất của cấu trúc ca

dao trữ tình người Việt đã được phát hiện thêm và phân tích thấu đáo”.

[23, tr.306]

Trong bài viết Ngôn ngữ ca dao Việt Nam (Tạp chí Văn học, số

2/1991), Mai Ngọc Chừ cũng đã khẳng định rằng: “Cái đặc sắc của ngôn

ngữ ca dao chính là ở chỗ nó đã kết hợp được nhuần nhuyễn hai phong

cách: ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ hội thoại, nó truyền miệng bằng thơ. Và

6

chính cái hình thức tồn tại ấy là một trong những điều kiện để ca dao thấm

đượm, thơm lâu trong mỗi con người”. [7, tr.50]

Xem xét từ chỉ màu sắc dưới bình diện ngôn ngữ - văn hóa, Nguyễn

Khánh Hà trong luận văn Thạc sĩ Hệ thống từ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt

cũng đã thống kê và lập ra một bảng từ ngữ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt,

phân loại và sắp xếp chúng thành hệ thống. Ngoài ra, tác giả cũng đã bước

đầu phân tích ý nghĩa từ vựng và bối cảnh sử dụng chúng, qua đó làm sáng

tỏ những liên hệ của chúng đối với văn hóa truyền thống.

Trịnh Thị Minh Hương trong luận văn Thạc sĩ Tính biểu trưng của từ

ngữ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt cũng đã tiến hành khảo sát ý nghĩa biểu

trưng của từng nhóm màu trong từ điển và trong các văn bản thuộc phong

cách ngôn ngữ văn chương, trong đó có ca dao người Việt. Tác giả đã nêu

bật được những ý nghĩa biểu trưng của từng nhóm màu, góp phần làm rõ

nghĩa của lớp từ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt: “Trong các văn bản thuộc

phong cách ngôn ngữ văn chương, hầu hết những ý nghĩa biểu trưng chung

trong ngôn ngữ đều được vận dụng vào văn bản. Bên cạnh đó, các tác giả

cũng sáng tạo thêm một số ý nghĩa biểu trưng riêng biệt. Chẳng hạn như ca

dao đã dùng màu sắc để đưa ra những quan niệm thẩm mĩ riêng của người

bình dân như: răng đen, da đen giòn, áo nâu…”.[12, tr.90]

Như vậy, từ trước đến nay, ca dao thường được nghiên cứu, khám phá

ở những bình diện nội dung, thi pháp, ngôn ngữ, hệ thống cấu trúc nhưng có

được sức sống biểu cảm và hệ thống biểu tượng phong phú độc đáo thì từ

ngữ chỉ màu sắc đóng một phần quan trọng không nhỏ vào việc tạo ra cái

hay cái đẹp trong ca dao. Đặc biệt, nghiên cứu về “Từ ngữ biểu thị màu sắc

trong ca dao người Việt” thì chưa có tác giả nào đề cập đến một cách cụ thể,

chi tiết và sâu sắc. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những ý kiến, nhận xét,

7

đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi xem đó là những định

hướng cần thiết để thực hiện đề tài khóa luận của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Từ ngữ biểu thị màu sắc trong ca dao người Việt.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, phạm vi khảo sát của chúng tôi cũng được xác

định gói gọn trong ba tập Kho tàng ca dao người Việt (Tập I,II,III) do

Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên), NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội, 1995.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp

sau:

Phương pháp sưu tầm, đọc tài liệu

Phương pháp khảo sát, thống kê

Phương pháp phân loại

Phương pháp phân tích, chứng minh

Phương pháp tổng hợp

Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ

5. Bố cục khóa luận

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội

dung chính gồm có ba chương sau:

Chương Một: Những giới thuyết xung quanh đề tài

Chương Hai: Đặc điểm của từ ngữ biểu thị màu sắc trong ca dao

người Việt

Chương Ba: Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ biểu thị màu sắc trong ca

dao người Việt

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!