Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Từ ngữ biểu thị chiến tranh trong tiểu thuyết dấu chân người lính của nguyễn minh châu.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
LƯƠNG THỊ HẰNG
Từ ngữ biểu thị chiến tranh trong tiểu thuyết
Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trên hành trình sáng tạo của mình, mỗi nhà văn nhà thơ luôn cố gắng thổi vào linh
hồn của tác phẩm văn học một nhân cách riêng, phong cách riêng và những khám phá
riêng trước hiện thực cuộc đời, để từ đó dâng tặng cho kho tàng văn học dân tộc những
“trang văn trang đời”, những “trang văn trang hoa” đa sắc màu và có giá trị lớn trên mọi
nẻo đường của cuộc sống, trong mọi nhịp thở của thời gian.
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương
đại. Mỗi tác phẩm của ông là sự trăn trở, tìm tòi trong lao động nghệ thuật với một tinh
thần say mê. Và hơn ai hết ông là người ý thức sâu sắc được trách nhiệm cao quý của một
nhà văn chân chính đó. Với những trải nghiệm qua máu lửa chiến tranh khi hòa mình vào
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc, Nguyễn Minh Châu đã
không ngừng tìm tòi để rồi sáng tạo ra những trang văn mang vẻ đẹp mới lạ. Đặc biệt,
cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc là một trong những
cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Là nhà văn
mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho dòng chảy văn học chống Mỹ nhiều tác
phẩm đặc sắc mang một giọng điệu riêng, một phong cách riêng và một cái nhìn độc đáo
trước cuộc sống thực tại. Là nhà văn chiến sĩ đã cống hiến tuổi xuân cho đất nước, tìm
hiểu các tác phẩm Nguyễn Minh Châu không chỉ có ý nghĩa về khoa học mà còn là tình
cảm biết ơn.
Và đến với tiểu thuyết Dấu chân người lính – tác phẩm đánh dấu sự phát triển
trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu, cũng là tác phẩm gợi lại không khí
đấu tranh hào hùng của dân tộc hết sức ý nghĩa và sinh động. Cho đến nay đã có nhiều
bài viết về Dấu chân người lính trên tuần báo văn nghệ, văn học, tạp chí hoặc các bài viết
trong một số giáo trình. Nhưng hầu hết các công trình đó chỉ mới đi vào tìm hiểu phương
diện nội dung còn về hình thức, cụ thể là về tài năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả vẫn
chưa được chú ý. Để khắc họa lại diễn biến đấu tranh khốc liệt, hào hùng của dân tộc
trong ống kính thu nhỏ về chiến trường Quảng Trị một cách sống động, Nguyễn Minh
Châu không cần sự cầu kì, bay bướm của ngôn từ mà ngôn ngữ trong tiểu thuyết Dấu
chân người lính là ngôn ngữ giản dị đậm đặc màu sắc của chiến tranh.
Trên đây là những lí do thúc đẩy chúng tôi đến với đề tài: “Từ ngữ biểu thị chiến
tranh trong tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu”. Đi sâu vào nghiên
cứu đề tài này, chúng tôi mong rằng có thể đem lại một góc nhìn về vị trí cũng như vai
trò, tài năng sử dụng ngôn ngữ đậm đặc màu sắc chiến tranh của tác giả trong tiểu thuyết
này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi bắt gặp rất nhiều công trình nghiên
cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu, trong đó có đề cập tới
tiểu thuyết Dấu chân người lính. Nhìn chung các công trình đã đánh giá khá đầy đủ tài
năng văn chương của nhà văn cũng như vị trí của Dấu chân người lính trong dòng chảy
của nền văn học kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Chúng tôi có thể kể đến một số công
trình tiêu biểu sau:
Mai Hương (2002) với Nguyễn Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật, NXB
Văn hóa hay Nguyễn Văn Long (2007) với Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, tập II,
NXB Đại học sư phạm; Vương Trí Nhàn (2006) với Cây bút đời người, NXB Hội nhà
văn,… Đặc biệt, Nguyễn Trọng Hoàn (2004) với Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác
phẩm đã tập hợp được nhiều bài viết của các nhà phê bình tên tuổi Nguyễn Văn Hạnh,
Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Đinh Trí Dũng, …
Nhưng trong các công trình nghiên cứu, khía cạnh ngôn ngữ cuộc chiến trong Dấu
chân người lính vẫn chưa được chú ý khảo sát, miêu tả. Hầu như các công trình chủ yếu
đi vào tìm hiểu tài năng khắc họa tính cách các nhận vật, ngôn ngữ trần thuật hay giọng
điệu…của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm mà thôi. Hoặc có đề cập tới ngôn ngữ
chiến tranh trong tiểu thuyết này thì chỉ điểm qua rồi đánh giá chứ không phân tích cụ thể
như: nhận xét của Hà Minh Đức trong bài viết “Dấu chân người lính của Nguyễn Minh
Châu” in trong cuốn Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm đã giới thiệu ở trên: “Tác
phẩm Dấu chân người lính phản ánh khá trung thành những diễn biến của chiến dịch Khe
Sanh (…) Mở chiến dịch Khe Sanh, quân dân ta đã huy động một lực lượng lớn tập trung
vào cuộc kháng chiến” [13, tr.59]. Hay như Tôn Phương Lan trong bài viết “Cái nhìn
ngược sáng từ Di cảo Nguyễn Minh Châu” trên tạp chí Nghiên cứu văn học đã khẳng
định: “Những ghi chép của Nguyễn Minh Châu đã ghi lại một cách thật cụ thể tỉ mỉ và từ
những ghi chép này, ông đã cho chúng ta thấy được những hy sinh vô bờ bến của nhân
dân và bộ đội cũng như tình quân dân, nghĩa tình đồng đội trong bối cảnh ác liệt khôn
cùng của chiến tranh” [16, tr. 83].
Đến nay vấn đề “từ ngữ biểu thị chiến tranh” trong Dấu chân người lính của
Nguyễn Minh Châu vẫn đang còn bỏ ngỏ. Vì vậy khi tiến hành nghiên cứu đề tài này,
chúng tôi mong rằng sẽ giúp bạn đọc đánh giá được chính xác, cụ thể hơn dụng ý sử dụng
đậm đặc lớp từ ngữ ấy trong tác phẩm của cây bút viết tiểu thuyết đầy tài năng trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, đối tượng mà chúng tôi hướng đến là cuốn tiểu thuyết Dấu
chân người lính của Nguyễn Minh Châu do nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm
1987.
Do khuôn khổ luận văn và thời gian có hạn nên nghiên cứu tác phẩm này, chúng
tôi chỉ tập trung vào tìm hiểu từ ngữ biểu thị chiến tranh ở những phương diện: khảo sát,
miêu tả, phân loại và phân tích tác dụng của các từ ngữ đó đối với giá trị của Dấu chân
người lính.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đặt ra trong phạm vi tự giới hạn, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phối hợp một số phương pháp chính sau:
Phương pháp thống kê – miêu tả
Phương pháp phân tích – tổng hợp
5. Giới thuyết thuật ngữ
Trong quá trình tìm hiểu đề tài chúng tôi có một số quy ước để bạn đọc dễ hiểu khi
tiếp cận luận văn của chúng tôi là:
Trong khi phân tích cấu tạo ngữ pháp của từ và ngữ của tiếng Việt chúng tôi kí
hiệu:
Thành phần phụ trước: PT
Thành phần trung tâm: TT
Thành phần phụ sau: PS
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ vĩ đại của dân tộc ta tồn tại hai chiến tuyến đối
lập nhau: Một bên là kẻ xâm lược (tức đế quốc Mỹ và tay sai) và một bên là người chống
xâm lược (tức nhân dân Việt Nam). Và để dễ dàng gọi tên cho hai chiến tuyến này khi đi
sâu vào khảo sát lớp từ ngữ biểu thị trong tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn
Minh Châu, chúng tôi thống nhất gọi:
Kẻ xâm lược (tức đế quốc Mỹ và tay sai) là “địch”
Người chống xâm lược (tức nhân dân Việt Nam) là “ta”
6. Đóng góp của đề tài
Dấu chân người lính là một tiểu thuyết đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà
văn Nguyễn Minh Châu . Chúng tôi hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được là những
đóng góp về:
Khảo sát và miêu tả lớp từ ngữ biểu thị chiến tranh trong tiểu thuyết Dấu chân
người lính một cách có hệ thống. Từ đó phân tích giúp bạn đọc hiểu được tài năng sử
dụng dày đặc ngôn ngữ mang màu sắc quân đội nhiều mà không gây nhàm chán của tác
giả. Trái lại, chính nhờ việc vận dung linh hoạt các từ ngữ ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu
hấp dẫn bạn đọc ở việc dựng lại không khí đấu tranh khốc liệt, hào hùng trong các chiến
dịch ở Quảng Trị nói riêng, ở tất cả các tỉnh miền Nam nói chung trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc một cách chân thực, sống động nhất.
Nguyễn Minh Châu còn là một trong những tác giả có tác phẩm được chọn giảng
ở trường phổ thông nên kết quả luận văn nghiên cứu sẽ có những đóng góp nhất định cho
việc nghiên cứu và giảng dạy sau này.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn này
gồm ba chương:
Chương Một: Những lý luận chung liên quan đến đề tài
Chương Hai: Khảo sát và miêu tả từ ngữ biểu thị chiến tranh trong tiể thuyết Dấu
chân người lính
Chương Ba: Đặc trưng của từ ngữ biểu thị chiến tranh trong tiểu thuyết Dấu chân
người lính
PHẦN NỘI DUNG
Chương Một: Những lý luận chung liên quan đến đề tài
1.1. Khái quát về từ và cụm từ Tiếng Việt
1.1.1. Khái quát về từ Tiếng Việt
Trong cuộc sống khi nói hay khi viết, chúng ta cần phải dùng từ. Bởi từ là một
trong những đơn vị ngôn ngữ quan trọng để tạo nên câu hoặc lớn hơn câu trong quá trình
giao tiếp. Và người giao tiếp tốt là người biết huy động vốn từ có sẵn để tạo ra lời nói
hoặc văn bản hay, đạt hiệu quả cao. Tuy thế, giao tiếp là một hoạt động xã hội, muốn bộc
lộ được chính xác tâm tư, suy nghĩ của mình và muốn người khác lĩnh hội được đầy đủ ý
nghĩ đó, mỗi người cần phải nắm chắc được từ. Và khi nghiên cứu đề tài, để hiểu được
sâu sắc ý đồ vận dụng từ ngữ biểu thị chiến tranh dày đặc trong tiểu thuyết Dấu chân
người lính của Nguyễn Minh Châu, trước tiên chúng tôi và bạn đọc cần đi vào những
khía cạnh cơ bản của từ.
1.1.1.1. Khái niệm từ
Từ là đơn vị cốt lõi, đóng một vai trò hết sức quan trọng, giống như viên gạch để
xây dựng lên tòa lâu đài ngôn ngữ. Vì vậy, nó đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước. F.De. Saussure đã viết: “Từ là một đơn vị luôn
luôn ám ảnh tư tưởng chúng ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn
ngữ, mặc dù khái niệm này khó định nghĩa” (F.De.Saussure, 1973). Cho đến nay đã có
hàng trăm định nghĩa về từ. Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về từ nhưng có
thể thấy rằng mỗi ý kiến lại làm rõ thêm khái niệm từ ở một khía cạnh nào đó chứ chưa
có khái niệm nhất quán. Trong khuôn khổ luận văn có hạn nên chúng tôi chỉ đưa ra một
số khái niệm tham khảo sau:
Theo các tác giả thuộc Ủy ban khoa học xã hội trong cuốn Ngữ pháp Tiếng Việt
thì “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định dùng để đặt câu” [,
tr.49]. Hoàng Phê trong Từ điển Tiếng Việt cũng đồng tình với quan điểm này, coi từ là
“đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, dùng để đặt câu” [26, tr.1372]. Cũng có ý kiến tương tự, nhà
ngôn ngữ học Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất
có ý nghĩa dùng để cấu tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một “chữ” viết rời”
[11, tr.72].
Tác giả Hồ Lê lại xem: “Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách khỏi các
đơn vị khác của lời nói để vận dụng và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ
vựng hoặc ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp” [18, tr.64].
Còn theo Vũ Đức Nghiệu trong Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt thì: “Từ là đơn
vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên,
được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để cấu tạo câu” [8, tr.142].
Theo Đỗ Hữu Châu thì: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất
biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định,
tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo
nên câu” [5, tr.13]
Trong quá trình tìm hiểu các quan niệm về từ tiếng Việt của các nhà Việt ngữ trên,
chúng tôi nhận thấy đều có sự thống nhất về từ ở một số đặc điểm: âm thanh, ý nghĩa, cấu
tạo và khả năng hoạt động. Và nếu không đòi hỏi một cách nghiêm ngặt và chấp nhận
một cái nhìn để đi sâu vào nghiên cứu đề tài này thì chúng tôi đồng tình với định nghĩa
của Đỗ Thị Kim Liên:
“Từ là một đơn vị của ngôn ngữ, gồm một hoặc một số âm tiết có nghĩa nhỏ nhất,
có cấu tạo hoàn chỉnh và được vận dụng tự do để cấu tạo nên câu” [19, tr.18].
1.1.1.2. Tiêu chí nhận diện từ Tiếng Việt
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ Việt như: Đỗ Hữu
Châu, Đỗ Thị Kim Liên, Nguyễn Thiện Giáp,…chúng tôi xin đưa ra một số tiêu chí cơ
bản để nhận diện từ Tiếng Việt như sau:
Trước hết, từ là một đơn vị ngôn ngữ gồm một hoặc một số âm tiết (tiếng), có
nghĩa nhỏ nhất. Ví dụ: Từ có một âm tiết (lớn, nhỏ, cao, thấp, …), từ có hai âm tiết trở
lên (nhà văn, quần áo, chiến dịch, công nông binh, hợp tác xã, …),… Với tư cách là một
đơn vị ngôn ngữ, từ khác đơn vị khác nhỏ hơn nó là âm vị ở chỗ nó mang nghĩa. Mà ở
đây, âm vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, là tổng thể các nét khu biệt được thể hiện đồng
thời, có chức năng tham gia cấu tạo vỏ âm thanh các đơn vị có nghĩa và phân biệt các đơn
vị có nghĩa đó với nhau. Ví dụ: “Bình minh như lạ như quen”. Từ “bình minh” là đơn vị
gồm hai âm tiết, ta nghe được và mang ý nghĩa “lúc sáng sớm”; |b| là đơn vị nhỏ nhất, có
vỏ âm thanh nhưng không có nghĩa mà chỉ là một đơn vị dùng để khu biệt nghĩa.
Từ có tính hoàn chỉnh cả về nghĩa và về cấu tạo. Từ phải có tính hoàn chỉnh về
nghĩa tức là mỗi từ được phát âm hoặc viết ra phải có nghĩa, phù hợp với mục đích giao
tiếp. Mà theo Nguyễn Thiện Giáp “một đơn vị được coi là có tính hoàn chỉnh về nghĩa
khi nó biểu thị một khái niệm về đối tượng tồn tại bên ngoài chuỗi lời nói” [11, tr.75]. Ví
dụ: “Đôi bàn tay nhỏ nhắn”. Ở đây, “nhỏ nhắn” biểu thị ý nghĩa vừa nhỏ vừa đẹp. Hay
từ “cà chua” với tư cách là một từ đa tiết, nó biểu thị một loại cà chua cụ thể, quả mềm,
khi chín màu đỏ, vị hơi chua, dùng để ăn sống hoặc nấu chín. Với nghĩa này trong bất cứ
trường hợp nào nó vẫn thể hiện chính đối tượng là quả cà chua. Kèm theo tính hoàn chỉnh
về nghĩa, từ phải có tính hoàn chỉnh về cấu tạo, tức là có hình thức ngữ âm cố định. Ta
không thể chia tách hoặc chêm xen một yếu tố phụ vào giữa hai yếu tố cấu thành một từ
(tức giữa từ). Nếu có sự chia tách hoặc chêm xen khác thì nó sẽ phá vỡ tổ chức cấu trúc
và ngữ nghĩa ban đầu. Từ ví dụ trên nếu xen vào giữa từ “cà chua” một từ khác như: “quả
cà pháo bị chua” thì nó lại mang nghĩa khác biểu thị một loại cà có thuộc tính là chua.
Hoặc ví dụ từ “máy bay” với nghĩa ban đầu là loại sự vật được cấu tạo bằng các vật liệu,
là phương tiện dùng chuyên chở trên không trung. Nhưng khi chia tách ra “máy” – “bay”
đều có nghĩa nhưng không mang nghĩa ban đầu nữa. Hoặc “cánh gà” là một từ, ta không
thể chêm yếu tố phụ vào giữa “cánh” và “gà”. Trừ khi “cánh gà” là cụm từ, ta có thể chen
yếu tố vào giữa : “cánh của gà”. Như vậy, nhờ tính hoàn chỉnh này đã giúp ta xem xét
trong cấu tạo nội bộ của từ, phân biệt từ với cụm từ. Nhưng cũng có trường hợp khác, khi
chia tách từ thì từ đó vẫn mang nghĩa ban đầu nhưng phải đặt nó trong cấu trúc câu để
nhằm đạt được các mục đích tu từ khác nhau. Ví dụ: “Bướm chán ong chường”. Ở đây,
người đọc ngầm hiểu nghĩa của “chán chường” trong cấu trúc câu.
Một tiêu chí cần lưu ý để nhận diện từ nữa là: Từ có tính độc lập về ngữ pháp.
Điều đó có nghĩa, từ có thể kết hợp tự do với các từ khác để tạo câu . Từ luôn đứng ở mọi
vị trí trong câu, có thể cấu tạo nên cụm từ và tạo nên câu. Hình vị cũng giống từ ở chỗ là
đơn vị có nghĩa nhỏ nhất nhưng lại không có khả năng hoạt động tự do mà luôn bị ràng
buộc trong từ. Ví dụ: “Quốc kì” là một từ độc lập vì nó có khả năng kết hợp tự do với |lá|
… |này| thành “Lá quốc kì này” còn hình vị |quốc| không thể kết hợp tự do như vậy.
Tóm lại, từ là đơn vị phải thỏa mãn cả ba đặc điểm trên, nếu thiếu một hoặc hai đặc điểm
thì xem xét ranh giới từ sẽ bị vi phạm và nó không gọi là từ.
1.1.1.3. Các trường nghĩa của từ
Có thể nói rằng, từ là tài sản chung của xã hội. Và trong vốn tài sản chung đó được
phân chia thành những tiểu hệ thống ngữ nghĩa. Các tiểu hệ thống ấy có quan hệ qua lại
với nhau. Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Mà theo Đỗ Hữu
Châu “đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa. Với các trường nghĩa,
chúng ta có thể phân định một cách tổng quát những quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng
thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng
mỗi trường” [7, tr.145]. Như vậy hiểu một cách chung nhất, trường nghĩa là những tập
hợp từ đồng nhất với nhau về nghĩa từ vựng. Chẳng hạn trường nghĩa “đồ dùng” là một
tập hợp từ và các từ đều có chung nét nghĩa khái quát này là: giường, tủ, bàn, ghế, sách,
bút, cặp, áo, quần, dao, kéo,…
Mỗi trường nghĩa là một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống lớn là từ vựng của
một ngôn ngữ. F. De. Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương đã chỉ ra “hai
dạng chung nhất của ngôn ngữ: quan hệ ngang (hay quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến
tính, quan hệ ngữ đoạn) và quan hệ dọc (hay quan hệ trực tuyến, quan hệ hệ hình)” [dẫn
theo Đỗ Hữu Châu, 7, tr.145]. Dựa vào hai loại quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ đó ta có