Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá Thực trạng và giải pháp
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LUẬN VĂN:
Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá -
Thực trạng và giải pháp
Lời nói đầu
Sự đổi mới hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời
kỳ đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa mang tính cấp bách
đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế, Đảng
ta đã chỉ rõ “Chính sách tài chính quốc gia hướng vào lĩnh vực tạo vốn, sử dụng vốn có
hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân...” Thực
hiện chủ trương đó và nhằm đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư, năm 1989
Chính phủ đã có chủ trương về xoá bỏ bao cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, tất cả
những dự án sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn trực tiếp đều phải vay vốn
tín dụng để đầu tư Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được Nhà nước giao
cho thực hiện việc cho vay các công trình xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước (từ
năm 1995 đến nay việc cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước còn có thêm
Tổng cục đầu tư và Phát triển nay là Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Ngân hàng
thương mại khác thực hiện).
Thực hiện hoạt động tín dụng đầu tư đối với các dự án là một trong những mục
tiêu quan trọng hàng đầu trong định hướng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng. Trên cơ sở Nghị
định của Chính phủ và thể lệ tín dụng trung và dài hạn của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chủ trương cho các doanh nghiệp
trong và ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư các dự án trong
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng,
Nhà nước, địa phương trong từng thời kỳ. Từ 1995, ngoài các dự án được giao trong kế
hoạch, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển còn chủ động huy động vốn dài hạn và tìm các
dự án có hiệu quả để đầu tư.
Với chức năng nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thanh Hoá đã và đang tích cực, chủ động, linh hoạt sử dụng các nguồn
vốn khác nhau để xem xét cho vay các dự án trung, dài hạn trên nhiều lĩnh vực thuộc
các ngành kinh tế khác nhau trong tỉnh với khối lượng tín dụng hàng nghìn tỷ đồng.
Phần lớn các dự án được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cho vay, sau khi hoàn thành
đi vào hoạt động đã phát huy có hiệu quả, đáp ứng một phần nhu cầu đòi hỏi của nền
kinh tế trong sự nghịêp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần vào việc
tăng trưởng của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát và giải quyết việc làm cho người lao
động. Song, cũng có công trình, dự án khi đi vào hoạt động kém hiệu quả, thậm chí
không phát huy được hiệu quả như dự kiến, dẫn tới nợ quá hạn kéo dài ảnh hưởng tới
hoạt động của Ngân hàng và nền kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến làm chậm sự hoà nhập
nền kinh tế của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Vậy, làm như thế nào để hoạt động của tín dụng trung, dài hạn có hiệu quả góp
phần đáp ứng được nhu cầu đỏi hỏi của nền kinh tế và mang lại thu nhập cho Ngân
hàng. Qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá, với sự hiểu
biết của mình bản luận văn này tôi xin trình bày “Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp” phạm vi đề tài này
nghiên cứu trong thời gian từ năm 1996 đến 2000 và được bố cục theo các nội dung
sau :
Chương I: Đầu tư và Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh
tế.
Chương II : Thực trạng tín dụng trung , dài hạn của NHĐầu tư và Phát triển
Thanh Hoá.
Chương III: Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lương tín dụng trung,
dài hạn.
chương I
đầu tư và tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng
đối với nền kinh tế
----------
Theo giác độ kinh tế: Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn và tài nguyên trong
một thời gian tương đối dài nhằm mục đích thu về lợi nhuận và các lợi ích kinh tế xã
hội khác.
Đầu tư có hai dạng: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, ở đây ta nghiên cứu đầu
tư gián tiếp tức là đầu tư bằng phương thức tín dụng. Đầu tư gián tiếp là đầu tư trong
đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và
phân phối kết quả đầu tư.
I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư
1- Vai trò của đầu tư :
- Đầu tư cơ bản là nhân tố quan trọng, nó quyết định trình độ phát triển của mỗi
nước. Khi đầu tư đúng hướng, có hiệu quả sẽ làm tăng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc
dân, tăng trưởng nền kinh tế. Đầu tư có tác dụng cải biến cơ cấu kinh tế, nó tạo ra một
cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác tiềm năng thế mạnh của các thành phần kinh tế và của
từng địa phương, từng vùng. Thông qua việc đầu tư để xây dựng mới rồi mở rộng qui
mô sản xuất, công suất, ứng dụng, công nghệ mới để không ngừng phát triển, nâng cao
TSCĐ. Tạo điều kiện căn bản để có thể tăng được GDP trong thời kỳ sau. Do đó đầu tư
ban đầu cho hiện tại là quyết định cho việc phát triển ở tương lai.
- Đầu tư là công cụ để Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành. Cơ cấu
kinh tế theo ngành là tỷ trọng GDP của mỗi ngành sản xuất xã hội trong tổng số GDP
toàn quốc. Gồm 3 lĩnh vực chính:
+ Ngành công nghiệp
+ Ngành nông nghiệp
+ Ngành dịch vụ
Năng suất lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ thường cao hơn nhiều
so với ngành nông nghiệp. Do đó nếu tỷ trọng của ngành nông nghiệp chiếm đa số,
phần lớn trong nền kinh tế quốc dân thì GDP sẽ tăng chậm, dẫn đến tình trạng lạc hậu
so với các ngành khác. Vì vậy điều chỉnh cơ cấu kinh tế hiện nay là giảm tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP nhưng số tuyệt đối vẫn phải tăng lên. Để thực hiện được điều này
thì Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: Công cụ tài chính, chính
sách thuế, chính sách tiền tệ. Lãi suất và đặc biệt là thông qua cơ cấu đầu tư cho từng
ngành.
- Đầu tư cơ bản tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với mỗi
quốc gia, mỗi khu vực trên thế giới có thế mạnh riêng về vốn, về tài nguyên, về lao
động, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Sự phân bố này là khồng đều. Để khai thác thế
mạnh mỗi bên thì hiện nay xu hướng trên thế giới các quốc gia liên kết với nhau trong
hoạt động đầu tư quốc tế, tạo nên những dự án khai thác thế mạnh của mỗi bên. Qua đó
các nước giàu có được tài nguyên để sử dụng, có nơi sử dụng vốn đầu tư với khả năng
sinh lợi cao hơn. Có thể bán hay chuyển giao công nghệ kỹ thuật, có thị trường tiêu thụ
sản phẩm rộng lớn. Đối với những nước nghèo, chậm phát triển thì khai thác được tài
nguyên của mình để phát triển kinh tế tạo ra được nhiều việc làm. học tập được các kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý theo cơ chế thị trường...
Đối với nước ta là một trong số các nước chậm phát triển trên thế giới, sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất, quản lý còn lạc hậu,
cơ cấu kinh tế chưa hợp lý... để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vai
trò của đầu tư có vị trí rất quan trọng. Nó tạo nên sự phát triển của đất nước, tạo được
việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân v.v... Qua đầu tư giúp cho các
doanh nghiệp có trách nhiệm hơn trong sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao trình
độ quản lý, tiếp thu công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến và phải tìm mọi biện pháp
xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả. Phải tìm đối tác, khách hàng và có chiến
lược phát triển đúng hướng để giải quyết được 3 vấn đề căn bản của thị trường là: Sản
xuất cái gì, số lượng và chất lượng sản phẩm như thế nào, và bán ở đâu? Nói tóm lại
qua đầu tư các doanh nghiệp phải xác định và thực hiện các biện pháp, phương án kinh
doanh có hiệu quả.
2- Đặc trưng của đầu tư:
- Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của mọi hoạt động đầu tư, nhất là đầu tư
trong sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư diễn ra trong thời gian dài, gồm nhiều giai đoạn, nhiều bước. Do vậy
nó làm cho một khối lượng đầu tư bị ứ đọng trong công trình và chưa phát huy được
hiệu quả khi công trình chưa đi vào sử dụng.
- Đầu tư mang tính rủi ro cao.
- Đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn rất lớn, thời gian thực hiện đầu tư lại kéo dài
cho nên tiềm ẩn rất nhiều các rủi ro như:
+ Rủi ro do các yếu tố tự nhiên
+ Rủi ro do các yếu tố về kinh tế thị trường như: Lạm phát, suy thoái kinh tế, sự
cạnh tranh quá mạnh trên thị trường.
+ Rủi ro do thanh toán quốc tế như tỷ giá đồng tiền thay đổi.
Trong bài viết này tôi xin phép đi sâu vào tín dụng đầu tư của Ngân hàng.
II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền kih tế
1- Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu,
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng vay vốn để sản xuất
kinh doanh. Mục đích hoạt động của Ngân hàng thương mại là để thu lợi nhuận.
Từ các hoạt động Ngân hàng truyền thống đến các hoạt động Ngân hàng hiện đại,
từ hoạt động chủ yếu nằm trong bảng tổng kết tài sản nội bảng đến việc mở rộng các
hoạt động ra ngoài bảng tổng kết tài sản... tất cả đều diễn ra trong một môi trường cạnh
tranh ngày càng sâu sắc và khốc liệt, không phải trong phạm vi từng nước, từng khu
vực mà còn trải rộng ra một không gian rộng lớn hơn nhiều. Ngân hàng thương mại
làm nhiệm vụ bơm vốn từ người cho vay sang người đi vay. ở đây Ngân hàng thương
mại không chỉ huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngấn hạn và cho vay ngấn hạn,
mà do thị trường tiền tệ ngày càng phát triển các Ngân hàng thương mại đi vào kinh
doanh tổng hợp, đa năng, làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung, dài hạn và
làm tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng. Với sự toàn cầu hoá, khu vực hoá nền
kinh tế, cùng với quá trình đổi mới và mở cửa của nền kinh tế nước ta với thế giới bên
ngoài đã và đang đặt ra yêu cầu thích ứng của các Ngân hàng thương mại trong quá
trình hoạt động trong điều kiện hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai, góp
phần tích cực vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Tuy
nhiên mỗi Ngân hàng đều có những định hướng chủ yếu trong hoạt động của mình.
2- Tín dụng và các vấn đề có liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại :
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu nó
sang người sử dụng nó, sau một thời gian nhất định được quay về với người sở hữu nó
với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu (bao gồm cả gốc và lãi)
Trong nền kinh tế thị trường, do yêu cầu của nền kinh tế về việc xây dựng cơ sở
vật chất để phát triển nền kinh tế trong khi đó ngân sách Nhà nước không phải là vô
hạn, muốn đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế phát triển nhanh,
nhất thiết phải có hoạt động tín dụng để nó tập trung vốn tiền tệ nhàn rỗi để trợ giúp
cho ngân sách Nhà nước. Thông qua hoạt động tín dụng góp phần kiểm tra kiểm soát
nền kinh tế. Trong đó thực hiện hình thức tín dụng Ngân hàng có vị trí hết sức quan
trọng, bởi vì hình thức tín dụng Ngân hàng có mối quan hệ rất rộng rãi ở trong nền
kinh tế, chủ thể của nó là Ngân hàng, khách thể của nó là tất cả các thành phần kinh tế
của nền kinh tế. Đồng thời đối tượng hoạt động của tín dụng Ngân hàng là tiền, vì vậy
tín dụng Ngân hàng có ưu điểm đặc biệt của nó. Hiện nay tín dụng Ngân hàng là hoạt
động chủ yếu của các Ngân hàng thương mại, nó tạo ra thu nhập cho Ngân hàng, cho
Nhà nước, cho xã hội.
Nội dung chủ yếu của hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng thương mại bao
gồm:
2.1. Qui mô tín dụng:
Qui mô tín dụng của một Ngân hàng thương mại (khả năng cung cấp tín dụng)
thể hiện qua tỷ trọng tín dụng trong tài sản có của Ngân hàng thương mại đó. Một tỷ
trọng tín dụng cao trong tài sản có của Ngân hàng thương mại sẽ cho phép Ngân hàng
thương mại thu được lợi nhuận cao, vì hiện nay tín dụng vẫn là nghiệp vụ mang lại từ
70-80% thu nhập cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.2. Giới hạn tín dụng:
Giới hạn tín dụng tức là định ra các mức độ tham gia vốn tín dụng của Ngân
hàng thương mại vào một dự án nào đó, thương vụ nào đó hay vào một hoạt động kinh
doanh nào đó của một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ở trong nền kinh tế. Giới hạn tín
dụng thường lệ thuộc vào các yếu tố sau đây: khối lượng vốn mà Ngân hàng thương
mại huy động được. Sự ổn định hay bất ổn định của nền kinh tế. Uy tín và tình trạng tài
chính của người vay vốn. Nhu cầu vay vốn của người vay. Mức độ hạn chế hoặc khả
năng giúp đỡ của Ngân hàng Trung ương.
2.3. Các loại hình tín dụng:
Một Ngân hàng có thể chọn một hoặc nhiều loại hình tín dụng thích hợp, tuỳ
theo khả năng về nhân lực và tính chất ổn định của nguồn vốn và tình hình của nền
kinh tế, đồng thời Ngân hàng thương mại cũng cần phải nghiên cứu tình hình thực tiễn
trên địa bàn để chọn một loại hình tín dụng làm mũi nhọn tài trợ chủ yếu hoặc thực
hiện phân tán tín dụng trên nhiều loại tín dụng khác nhau. Hiện nay ta thấy có một số
loại hình tín dụng sau: Căn cứ theo thời gian vay vốn là tín dụng ngắn hạn, tín dụng
trung và dài hạn. Căn cứ theo phương thức hoàn trả là tín dụng luân chuyển, tín dụng
theo món ngoài ra còn căn cứ mục đích vay như tín dụng chứng từ, tín dụng thuê mua,
tín dụng tiêu dùng...
2.4. Các lĩnh vực tài trợ của tín dụng:
Lĩnh vực tài trợ của tín dụng chính là việc các Ngân hàng chọn lựa và tiến hành
chuyên môn hoá việc tài trợ tín dụng cho một ngành sản xuất hay một lĩnh vực chuyên
môn nào đó hoặc phân tán tín dụng trên nhiều ngành, nhiều đơn vị doanh nghiệp khác
nhau. Tiến hành chuyên môn hoá như vậy sẽ có lợi cho Ngân hàng trong quá trình kinh
doanh vì dễ dàng nắm bắt các nhu cầu về tín dụng của lĩnh vực tài trợ, kiểm soát được
rủi ro và có thể đưa ra được những sản phẩm thích ứng cả về qui mô và chất lượng
phục vụ của Ngân hàng. Trên thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại thường tìm
cách đa dạng hoá các lĩnh vực tài trợ, nhưng cũng lựa chọn một lĩnh vực tài trợ nhất
định làm thế mạnh để cạnh tranh với các Ngân hàng khác, việc tài trợ có thể sử dụng
hình thức tài trợ khép kín cả ngắn, trung và dài hạn.
2.5. Chọn lựa kỳ hạn tín dụng:
Kỳ hạn tín dụng dài hay ngắn nó sẽ ảnh hưởng tới thanh khoản và sự rủi ro của
kinh doanh tín dụng. Kỳ hạn tín dụng càng dài, mức độ rủi ro càng cao và thanh khoản
càng khó khăn. Kỳ hạn tín dụng hoàn toàn phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất, khả năng trả
nợ của người vay, song chính Ngân hàng cũng phải định ra một kỳ hạn thế nào đó vừa
đảm bảo lợi ích của Ngân hàng (ít rủi ro) vừa hấp dẫn người vay. Tính chất của nguồn
vốn huy động được với thời gian dài hay ngắn, lãi suất cao hay thấp cũng quyết định
việc chọn lựa kỳ hạn tín dụng của Ngân hàng thương mại.
2.6. Rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong tín dụng có thể do phía khách hàng đem lại, có thể do chính chủ
quan của Ngân hàng hoặc có thể do thay đổi về chính sách vĩ mô. Một chính sách tín
dụng đúng là một chính sách tín dụng an toàn, ít rủi ro. Sự rủi ro tín dụng có thể dẫn
đến tình trạng như: lạm phát, suy thoái kinh tế... Vì vậy trong hoạt động tín dụng các
Ngân hàng cần phải xây dựng các biện pháp an toàn, phòng ngừa rủi ro và thực hiện
tốt qui trình công nghệ tín dụng.
2.7. Giá cả tín dụng (lãi suất):
Lãi suất là tỷ lệ % theo số tiền vay, mà người vay phải tính ra để trả cho Ngân
hàng cho vay. Lãi suất thường được tính theo tháng hoặc năm. Lãi suất tín dụng chịu
ảnh hưởng của các yếu tố như: lãi phải trả cho người gửi, chi phí quản lý của Ngân