Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

thực trạng lạm phát ở việt nam giai đoạn 2007-2009. kiểm soát lạm phát
MIỄN PHÍ
Số trang
25
Kích thước
218.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1541

thực trạng lạm phát ở việt nam giai đoạn 2007-2009. kiểm soát lạm phát

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai

đoạn 2007-2009. Kiểm soát lạm phát

A.Định nghĩa lạm phát:

Trong kinh tế học( phạm vi quốc gia)

Lạm phátlà tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một khoảng thời gian

nhất định

Trong một nền kinh tế( trong phạm vi thị trường tòan cầu)

Lạm phát là sự mất giá trị thị truong hay sự giảm sức mua của đồng tiền

Nguyên nhân lạm phát

 Cầu kéo

 Chi phí đẩy

 Và một số nguyên nhân khác: Sức ỳ nền kinh tế, Tiền tệ

Đối với nước VN, có thể nói hiện nay nguyên nhân lạm phát là do tác động tổ hợp của ba

dạng thức lạm phát : lạm phát tiền tệ( chủ yếu ), lạm phát chi phí đẩy , lạm phát cầu kéo.

Lạm phát cầu kéo: do đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân tăng, dẫn đến nhu

cầu nguyên nhiên vật liệu tăng, thiết bị công nghệ tăng, thu nhập người dân cũng như người thân

từ nước ngoài gửi về tăng làm cho thu nhập tăng dẫn đến nhu cầu của người dân tăng, ngoài ra

là do nhu cầu nhập khẩu lương thực thế giới tăng. Nhu cầu tăng đột biến đẩy giá cả các mặt hang

tăng nhanh.

Lạm phát chi phí đẩy: giá nguyên nhiên liệu: xăng dầu các sản phẩm hóa dầu, thép, phôi

thép…( giá đầu vào) trên thế giới tăng mạnh, trong điều kiện kinh tế nước ta phần lớn phụ thuộc

vào nhập khẩu ( chiếm 90% GDP) đồng thời thiên tai, mất mùa cũng khiến dẫn đến giá cả thị

trường trong nước tăng

Lạm phát tiền tệ: Trong năm 2007cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh do vốn nước ngoài chảy

vào tăng đột bíên buộc ngân hàng nhà nứoc tung khối lượng lớn tiền để mua ngoại tệ  tăng

lượng tiền trong lưu thông với mức 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao , thêm vào đó là hệ

quả của sự tăng tín dụng trong những năm trước đó.

Nhưng trong khi đó so với các nuớc trong khu vực, như Thái Lan , Trung Quốc, cũng chịu

sức ép tương tự mà lạm phát chỉ ở mức 1 con số, còn ta dến hai chữ số => khác biệt đó là domức

chênh lệch mức tăng cung tiền và GDP quá lớn(2005-2007 cung tiền tăng 135%, GDP tăng

27% ) Mức chênh lệch đó là do cơ cấu kinh tế chậm cải thiện, công nghiêp khai thác tài nguyên

gia công chiếm tỉ trọng lớ, giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp, đầu tư từ nguồn ngân sách

nhà nước còn dàn trải, không đảm bảo tiến độ, không hiệu quả, nhiều thất thoát…kéo dài , chậm

khắc phục.Công tác dự báo dự kiến biện pháp, kế họach ứng phó những tác động tiêu cực của

kinh tế thế giới chưa được quan tâm đúng mức, tham mưu Đảng và Nhà Nước do chưa có kinh

nghệim nên còn lúng túng, thiếu linh hoạt trong ứng phó. Nói chung ngoài những yếu tố khách

quan còn do yếu tố chủ quan là từ cơ quan Nhà nước điều hành ổn định kinh tế vĩ mô thiếu hiệu

quả.

Tuy nhiên nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam là vấn đề còn đang được tranh luận.

1

B.Thực trạng lạm phát giai đoạn 2007-2009 và kiểm soát

I.Năm 2007

Trần Văn Thích

Sau 11 năm (1996-2006) giữ được tốc độ lạm phát ở mức một con số, nền

kinh tế Việt Nam lại “sôi” lên với làn sóng tăng giá khá mạnh mẽ vào năm

2007, đã khiến cho nhiều ngành, nhiều cấp và nhiều giới phải “vào

cuộc” để tìm hiểu đâu là căn nguyên của vấn đề, thực tế tác động của nó đến

đời sống kinh tế - xã hội ở mức nào, và phải kiềm chế lạm phát ra sao. Xung

quanh vấn đề này đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược

nhau (nhiều người tỏ ra lo ngại trước con số lạm phát 12,63% của năm 2007;

nhưng cũng có người lại bình thản cho rằng “lạm phát vẫn đang trong

tầm kiểm soát”, hay “nền kinh tế vẫn đang đà phát triển lành mạnh”

I .Diễn biến lạm phát

Lạm phát những năm gần đây

Thực trạng lạm phát tại Việt Nam 12 năm qua (1996-2007) có thể tóm lược

lại trong mấy điểm nổi bật sau đây:

Việt Nam đã “kéo” được chỉ số lạm phát (CPI) từ mức ba con số

(774,7%/1986;

223,1%/1987; 393,8%/1988) xuống một con số (5,2%/1993) và duy trì nó

trong hơn mười năm qua. Nổi bật hơn hết là việc kiềm chế được lạm phát ở

mức thấp mà chúng ta không phải “đánh đổi”, hay “lựa chọn” giữa mục

tiêu tăng trưởng và lạm phát như nó thường diễn ra tại nhiều nước. Đó thật

sự là một thành tựu lớn.

Thực trạng lạm phát năm 2007

Sau 11 năm lạm phát giữ ở mức một con số, năm 2007 chỉ số này đã tăng

lên mức hai con số. Điểm khác biệt của lạm phát trong năm này là sự tăng

giá diễn ra đồng loạt ở cả nhóm hàng lương thực và phi lương thực. Đứng

đầu về tốc độ tăng giá trong nhóm các hàng hóa tính CPI là thực phẩm

(tăng 21,16%, riêng tháng 12 tăng 4,69%). Nhóm hàng nhà ở và vật liệu

xây dựng tăng cao thứ hai (tăng 17,12%, riêng tháng 12 tăng 3,28%). Đứng

thứ ba là nhóm hàng lương thực (tăng 15,4%, riêng tháng 12 tăng 2,98%).

Phương tiện đi lại và bưu điện đứng thứ tư (tăng hơn 7%, riêng tháng 12

tăng 0,7%). Tiếp đến là nhóm hàng may mặc và giày dép (tăng 7%,

riêng tháng 12 tăng 1,16%); dược phẩm và y tế (tăng 7%)(2), v.v...

Hiện tượng giá tăng diễn ra ở hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ như vậy

cho thấy, nguyên nhân của lạm phát không chỉ hoàn toàn do tác động của

2

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!