Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thanh niên Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay
PREMIUM
Số trang
181
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1689

Thanh niên Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Bé QuèC PHßNG

HäC VIÖN CHÝNH TRÞ

-----  -----

NGUYÔN V¡N TïNG

THANH NI£N QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM

GI÷ G×N B¶N S¾C V¡N HO¸ D¢N TéC TRONG

HéI NHËP QUèC TÕ HIÖN NAY

LUËN ¸N TIÕN SÜ TRIÕT HäC

Hµ NéI - 2011

4

BỘ QUỐC PHÕNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

-----  -----

NGUYỄN VĂN TÙNG

THANH NI£N QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM

GI÷ G×N B¶N S¾C V¡N HO¸ D¢N TéC TRONG

HéI NHËP QUèC TÕ HIÖN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Mã số: 62 22 85 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1- TS Nguyễn Đức Tiến

2 - TS Lƣu Ngọc Khải

HÀ NỘI - 2011

5

Lêi cam ®oan

T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu

cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, kÕt qu¶ nªu trong luËn

¸n lµ trung thùc, cã nguån gèc xuÊt xø râ rµng.

Tác giả luận án

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU 5

Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI 9

1.1. Những vấn đề có liên quan đến đề tài đã được nghiên cứu 9

1.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài chưa được nghiên cứu 22

Chƣơng 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN

TỘC VIỆT NAM VÀ VAI TRÕ THANH NIÊN QUÂN ĐỘI

NHÂN DÂN VIỆT NAM GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN

TỘC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY 24

2.1. Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam và tác động của hội nhập

quốc tế đến bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam 24

2.2. Thực chất giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam và vai

trò thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam giữ gìn bản sắc

văn hoá dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay 59

Chƣơng 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI

THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM GIỮ

GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TRONG HỘI NHẬP

QUỐC TẾ HIỆN NAY 83

3.1. Thực trạng thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam giữ gìn

bản sắc văn hoá dân tộc trong hội nhập quốc tế và nguyên

nhân của thực trạng đó 83

3.2. Những nhân tố tác động và một số vấn đề đặt ra đối với

thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam giữ gìn bản sắc văn

hoá dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay 114

Chƣơng 4 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT

HUY VAI TRÒ THANH NIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

VIỆT NAM GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC

TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY 125

4.1. Phương hướng phát huy vai trò thanh niên Quân đội nhân dân

Việt Nam giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong hội nhập quốc

tế hiện nay 125

4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò thanh niên

Quân đội nhân dân Việt Nam giữ gìn bản sắc văn hoá dân

tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay 133

KẾT LUẬN 160

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 163

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 164

PHỤ LỤC 172

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Số thứ tự Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

Bản sắc văn hoá dân tộc

Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam

Cách mạng xã hội chủ nghĩa

Chính trị quốc gia

Chủ nghĩa cộng sản

Chủ nghĩa đế quốc

Chủ nghĩa xã hội

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Diễn biến hoà bình

Đảng Cộng sản Việt nam

Hội nhập quốc tế

Khoa học xã hội, nhân văn

Nhà xuất bản

Quân đội nhân dân Việt nam

Thanh niên quân đội

Thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam

Trang

Xã hội chủ nghĩa

BSVHDT

BSVHDTVN

CMXHCN

CTQG

CNCS

CNĐQ

CNXH

CNH, HĐH

DBHB

ĐCSVN

HNQT

KHXH, NV

Nxb

QĐNDVN

TNQĐ

TNQĐNDVN

Tr.

XHCN

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bản sắc văn hoá dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hoá, thể hiện

tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết

nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển.

Những giá trị của BSVHDT là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn

định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. BSVHDT Việt Nam được hình

thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng

CNXH. Bản sắc đó thể hiện ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, được bao thế hệ vun

đắp, hun đúc tạo nên sức sống mãnh liệt giúp cộng đồng các dân tộc Việt Nam

vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tồn tại, không ngừng lớn mạnh và phát

triển bền vững. Nó là niềm tự hào của mọi người dân Việt Nam, là nguồn sức

mạnh vô địch đảm bảo cho dân tộc Việt Nam trường tồn, phát triển trong mọi

thời đại lịch sử.

Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thực hiện hai nhiệm

vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” diễn ra trong xu thế HNQT ngày càng sâu

rộng. Bên cạnh những thời cơ cần tận dụng để phát triển, đã và đang đặt ra

những thách thức không nhỏ về nguy cơ nhạt dần, dẫn đến mất BSVHDT.

Những thách thức đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho toàn Đảng, toàn dân ta là phải

tìm lời giải để vừa tích cực HNQT phát triển đất nước, vừa phải chú trọng giữ

gìn BSVHDT Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Bởi lẽ, các thế lực thù

địch đang ra sức lợi dụng HNQT, sử dụng nhiều thủ đoạn mới tinh vi trong chiến

lược “DBHB” để chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó có trọng điểm chúng

ưu tiên là làm phai nhạt lý tưởng cách mạng của thế hệ trẻ thông qua tuyên

truyền, thâm nhập văn hoá phẩm độc hại, từng bước phủ nhận hệ giá trị của

BSVHDT. Chúng phá hoại mối đoàn kết quân dân, phủ nhận những thành quả

cách mạng hào hùng của thế hệ cha anh, sử dụng thủ đoạn “phi chính trị hoá

6

quân đội”, tạo ra sự “vô cảm về chính trị” nhằm từng bước thực hiện ý đồ: “dùng

cộng sản con diệt cộng sản cha”, phá hoại sự nghiệp cách mạng nước ta.

Thanh niên QĐNDVN là lực lượng nòng cốt, trực tiếp thực hiện thắng lợi

chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó cho quân đội. Họ là lực lượng

cơ bản giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần xây

dựng cho quân đội luôn là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén của

Đảng, Nhà nước và của nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trước đây

trong chiến tranh giải phóng dân tộc, tuổi trẻ quân đội đã kế thừa, phát huy cao độ

BSVHDT, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thấm nhuần sâu sắc lý tưởng

độc lập dân tộc và CNXH, khắc phục mọi khó khăn, chiến đấu và chiến thắng mọi

kẻ thù, xây dựng nên truyền thống “Trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến

đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn

thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[72, tr.351-352].

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN diễn ra trong bối cảnh

HNQT ngày càng sâu rộng, với những biến động phức tạp khó lường đang đặt ra

những yêu cầu mới, đòi hỏi TNQĐ không chỉ có bản lĩnh chính trị, giỏi về chuyên

môn nghiệp vụ quân sự, mà còn phải tinh thông về văn hoá, tham gia giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

Thực trạng những năm gần đây, phần lớn TNQĐNDVN đã phát huy

vai trò nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

XHCN, góp phần quan trọng vào giữ gìn BSVHDT và bản chất truyền

thống “Bộ đội Cụ Hồ”. Tuy nhiên, TNQĐNDVN cũng còn bộc lộ nhiều

hạn chế về nhận thức, về hiệu quả trong thực hiện giữ gìn BSVHDT. Một

bộ phận TNQĐ có những biểu hiện sai lệch chuẩn mực giá trị về phẩm chất

chính trị, đạo đức, lối sống. Hiện trạng đó, nếu không được khắc phục kịp

thời sẽ làm phai nhạt, xói mòn hệ giá trị chuẩn mực trong BSVHDT, ảnh

hưởng không nhỏ đến bản chất, truyền thống quân đội, đến hình ảnh tốt

đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” và chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được giao

trong giai đoạn cách mạng mới.

7

Tình hình trên đây đang đặt ra những yêu cầu mới hết sức cấp thiết về lý luận,

thực tiễn phải nghiên cứu, luận giải, đề ra những giải pháp mang tính khả thi, đảm bảo

cho TNQĐNDVN phát huy hơn nữa vai trò người “chiến sĩ văn hoá”. Nâng cao nhận

thức, hành động tham gia giữ gìn BSVHDT, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ xây

dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện lịch sử mới.

Với những lý do trên tác giả lựa chọn vấn đề “Thanh niên Quân đội nhân dân

Việt Nam giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay” làm đề tài

nghiên cứu của luận án.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Mục đích:

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về thanh niên QĐNDVN giữ

gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay, đề xuất phương hướng và một số nhóm giải

pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò thanh niên QĐNDVN tham gia giữ gìn bản sắc văn

hoá dân tộc trong HNQT hiện nay.

-Nhiệm vụ:

+ Làm rõ quan niệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và vai trò thanh niên

QĐNDVN giữ gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay.

+ Phân tích thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với thanh

niên QĐNDVN giữ gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay.

+ Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò

TNQĐNDVN giữ gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu của luận án là TNQĐNDVN giữ gìn BSVHDT trong

HNQT hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu của luận án là thanh niên QĐNDVN, nhưng chủ yếu tập

trung ở các đơn vị chủ lực và học viên đào tạo sĩ quan trong các nhà trường quân đội

khu vực phía bắc của nước ta, thời gian khảo sát chủ yếu từ 2001 đến nay.

8

4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ

nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng tổng hợp các phương pháp cụ thể khác như: phân tích,

tổng hợp,so sánh, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia…

5. Những đóng góp về khoa học của luận án

Làm rõ quan niệm về giữ gìn BSVHDT và vai trò thanh niên QĐNDVN giữ

gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay.

Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với

thanh niên QĐNDVN giữ gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay.

Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của thanh niên

QĐNDVN giữ gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Cung cấp một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của thanh niên QĐNDVN

giữ gìn BSVHDT trong HNQT hiện nay.

Góp phần giúp lãnh đạo chỉ huy trực tiếp quản lý lực lượng TNQĐ, nâng cao

chất lượng giáo dục toàn diện để phát huy vai trò của TNQĐ giữ gìn BSVHDT trong

HNQT hiện nay .

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy chủ nghĩa xã hội

khoa học, trong nghiên cứu khoa học ở các học viện, nhà trường và đơn vị cơ sở

QĐNDVN.

7. Kết cấu của luận án

Luận án gồm: Mở đầu; 4 chương (8 tiết); kết luận; danh mục công trình khoa

học đã công bố; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

9

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Những vấn đề có liên quan đến đề tài đã đƣợc nghiên cứu

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở trong nước

* Văn hoá và tác động của hội nhập quốc tế đến văn hoá

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào

điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng nước ta, ĐCSVN và Chủ tịch Hồ Chí

Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta ngay từ đầu đã khẳng định vị

trí vai trò và tầm quan trọng của văn hoá với sự nghiệp cách mạng, với sự phát

triển kinh tế - xã hội và xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện,

khẳng định và đề cao sức mạnh dân tộc, BSVHDT trong tiến trình cách mạng,

coi đây là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách

mạng ở mọi giai đoạn.

Từ việc nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của văn hoá với sự phát

triển xã hội, ĐCSVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm nhìn cách mạng

và khoa học về chiến lược văn hoá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, coi đó là

nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Trong đường lối chung lãnh đạo cách mạng,

phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đều có chiến lược, định hướng phát triển văn

hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng. Giai đoạn đấu tranh

giành độc lập dân tộc, ngay khi cách mạng chưa thành công Đảng đã đề ra “Đề

cương văn hoá Việt Nam” năm 1943 với đặc trưng cơ bản của nền văn hoá “Dân

tộc- khoa học- đại chúng”. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta đã

phân tích sâu sắc diễn biến tình hình, nêu lên những nhiệm vụ cơ bản trên mặt

trận văn hoá, thức tỉnh và tập hợp rộng rãi trí thức Việt Nam vào sự nghiệp cứu

quốc dưới ngọn cờ của Đảng, tạo sức mạnh tổng hợp góp phần quan trọng đưa

cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đến thắng lợi . Sau đề cương, tác

phẩm: “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”, Cố Tổng Bí thư Trường Chinh

10

đã phân tích sâu sắc những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hoá nêu trong đề

cương, xác định lập trường mác xít kiên định khi phân tích, lên án văn hoá thực

dân phong kiến; khẳng định vai trò của văn hoá cách mạng và phương pháp

khoa học biện chứng trong việc xác định nội dung, tính chất và nhiệm vụ của

nền văn hoá mới Việt Nam. Tác phẩm nhấn mạnh lập trường văn hoá cách

mạng, phân tích làm sáng tỏ tính dân tộc, khoa học và đại chúng của nền văn hoá

Việt Nam làm cơ sở để định hướng phát triển văn hoá và sáng tác của văn nghệ

sĩ, đảm bảo cho văn hoá luôn là động lực chủ yếu, khai thác phát huy mọi tiềm

năng về trí tuệ, tinh thần, vật chất của nhân dân, tạo sức mạnh cho dân tộc vượt

qua mọi thử thách để không ngừng phát triển. Đánh giá ý nghĩa và giá trị lịch sử

của đề cương cũng như công lao to lớn của Cố Tổng Bí thư Trường Chinh với sự

nghiệp văn hoá, giáo sư Nguyễn Đức Bình khẳng định: “Đề cương văn hoá Việt

Nam vào thời điểm 50 năm trước chính là đỉnh cao của trí tuệ đương thời, là

nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về tương lai, là sức mạnh tinh

thần to lớn mà đất nước đang cần”[8, tr. 519].

Thời kỳ đổi mới, vẫn trên tinh thần cơ bản của đề cương văn hoá vạch ra,

Đảng ta đã tiếp tục phát huy tinh thần dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới, nhấn

mạnh vai trò tầm quan trọng của việc xây dựng nền văn hoá mới, nhằm tạo ra

đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, nhân đạo, dân chủ và tiến bộ.

Đặc biệt, trước xu thế toàn cầu hoá và HNQT ngày càng sâu rộng, bên cạnh thời

cơ và vận hội lớn giúp nước ta phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước

trong khu vực và quốc tế, đã đặt ra những thách thức không nhỏ đối với phát

triển văn hoá, cũng như giữ gìn BSVHDT. Các Hội nghị lần thứ tư khoá VII, lần

thứ năm khoá VIII của Ban Chấp hành Trung ương đã khẳng định vai trò nền

tảng tinh thần của văn hoá, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển

kinh tế - xã hội, không những vừa phải xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên

tiến, hiện đại, mà còn vừa phải đảm bảo giữ gìn phát huy bản sắc dân tộc, kiên

định và giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển.

11

Cùng với tăng cường quảng bá văn hoá, quảng bá hình ảnh đất nước, con

người Việt Nam với nước ngoài, làm cho cộng đồng thế giới ngày càng hiểu sâu

sắc hơn về đất nước, con người Việt Nam, phải đồng thời tiếp thu có chọn lọc

những thành tựu văn hoá, khoa học công nghệ hiện đại của thế giới nhằm phát

triển, hoàn thiện văn hoá Việt Nam tương xứng với tầm vóc, với sự nghiệp đổi

mới đất nước theo định hướng XHCN. Khẳng định nhiệm vụ xây dựng nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc xét về thực chất là sự cụ thể hoá

đường lối văn hoá của Đảng ta đề ra từ khi thành lập với mục tiêu độc lập dân

tộc và CNXH. Giữ vững sự ổn định, phát triển bền vững đất nước trong xu thế

HNQT, trên cơ sở giữ gìn, phát huy BSVHDT và dựa trên nền tảng chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có như vậy, chúng ta vừa tận dụng được

cơ hội phát triển đất nước, tiến kịp yêu cầu phát triển chung của khu vực và quốc

tế, vừa giữ vững BSVHDT, không bị hoà tan, đánh mất BSVHDT.

Như vậy, quan điểm cơ bản của Đảng ta về văn hoá, bản sắc văn hoá thể

hiện ở nhiều văn kiện, trong các thời kỳ cách mạng, phản ánh tầm nhìn chiến

lược, sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng.

Những quan điểm cụ thể, trực tiếp chỉ đạo và định hướng sự nghiệp cách mạng

nói chung, phát triển văn hoá và giữ gìn bản sắc văn hoá nói riêng.

* Về bản sắc văn hoá dân tộc

Trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lênin, quan điểm, đường lối của

Đảng ta về văn hoá và phát triển văn hoá trong các giai đoạn cách mạng, gần đây

có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước bàn về văn hoá phát

triển trong HNQT, đưa ra các cách tiếp cận khác nhau về văn hoá và BSVHDT,

về mối quan hệ giữa giữ gìn BSVHDT với hội nhập, giao lưu văn hoá quốc tế.

Quan điểm mang tính định hướng, khái quát và rất sâu sắc về văn hoá,

bản sắc văn hoá, mối quan hệ giữa văn hoá và đổi mới, cố Thủ tướng Phạm Văn

Đồng đã viết cuốn sách “Văn hoá và đổi mới” (1995). Trong cuốn sách này, cố

Thủ tướng đã đề cập quan điểm khoa học về văn hoá, vai trò to lớn của văn hoá

12

và bản sắc văn hoá trong trường kỳ hình thành phát triển dân tộc, luận giải một

cách khoa học và sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và đổi mới, giữa

lịch sử và văn hoá, qua đó gợi ra những quan điểm có tính chất mở đường về sự

cần thiết, mục tiêu, thực chất của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá

trình đổi mới đất nước, tích cực mở rộng HNQT. Đây là những định hướng rất

quan trọng cho quá trình nghiên cứu, quán triệt và hiện thực hoá quan điểm của

Đảng, góp phần xây dựng phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc trong hội nhập quốc tế.

Bàn về BSVHDT, vai trò văn hoá với sự phát triển đất nước, mối quan hệ

giữa giao lưu hội nhập với giữ gìn bản sắc văn hoá trong xu thế mới để phát triển

văn hoá, có các công trình khoa học: “Bản sắc dân tộc của văn hoá”(1990) của

Đỗ Huy và Trường Lưu; “Văn hoá với sự phát triển của xã hội Việt Nam theo

định hướng XHCN” (1998) của Lê Quang Thiêm; “Xây dựng nền văn hóa mới ở

nước ta hiện nay”(1992) của Nguyễn Duy Quý và Đỗ Huy, “Văn hoá và phát

triển”(2000) của Nguyễn Hồng Phong, “Phát huy nội lực văn hoá trong quá

trình phát triển” (2000) của Phạm Duy Đức …Trong các công trình này, đi từ

việc giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển, các tác giả không chỉ đưa

ra quan niệm về bản sắc văn hoá, đặc trưng và vai trò to lớn của nó với văn hoá

dân tộc; mà còn thống nhất khẳng định, vai trò của văn hoá với sự phát triển đất

nước là rất lớn, các nền văn hoá không tồn tại biệt lập, tách rời các nền văn hoá

khác mà luôn có sự giao lưu, thâm nhập lẫn nhau giữa các nền văn hoá. Vì vậy,

một mặt cần phải mở rộng giao lưu, hội nhập để phát triển, nâng tầm văn hoá,

mặt khác phải chú ý giữ gìn BSVHDT, bởi theo các tác giả:

Giữ gìn BSVHDT không đồng nghĩa với sự đóng kín và kỳ thị đối với các

nền văn hoá khác. Các nền văn hoá luôn trao đổi lẫn nhau. Các nền văn

minh nhân loại cho thấy sự giao lưu làm cho các nền văn hoá cùng phát

triển nhanh hơn, khi sự giao lưu đứt đoạn thì các nền văn hoá cũng phát

triển chậm lại và rơi vào tình trạng trì trệ [39, tr.355].

13

Cùng với hướng tiếp cận trên, các công trình nghiên cứu do hai tác

giả chủ biên: “Vai trò của văn hoá trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện

nay”(2000) của Trần Văn Bính, “Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay”(1995), của Phạm Ngọc Quang, đã khẳng

định vai trò to lớn của văn hoá đối với sự hình thành và phát huy phẩm chất năng

lực người cán bộ, từ đó hình thành các phẩm giá như ý thức cộng đồng, lòng tự

hào dân tộc, lương tâm, trí tuệ, niềm tin…Muốn vậy trong quá trình xây dựng

phát triển cần có sự giao lưu, tiếp nhận những giá trị tinh hoa của văn hoá nhân

loại trên cơ sở những giá trị truyền thống của dân tộc. Đặc biệt, các công trình

nghiên cứu của Trần Ngọc Thêm: “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”(1997);

của Lê Như Hoa: “Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại”(2003); “Bản sắc dân

tộc và hiện đại hoá trong văn hoá”(2000) của Hoàng Trinh; “Xây dựng và phát

triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(2001) của

Nguyễn Khoa Điềm; “Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng và văn

hoá”(2005) của Giáo sư Nguyễn Đức Bình…Trong các công trình này, tác giả

đã đi sâu phân tích và đưa ra các quan niệm khoa học khác nhau trong tiếp cận

văn hoá, vai trò, cấu trúc, chức năng của văn hoá; luận giải cội nguồn hình thành

ý thức dân tộc và bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam; khẳng định sức mạnh

của văn hoá, của bản sắc văn hoá trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước

của dân tộc Việt Nam; mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và phát triển, văn

hoá với các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là kinh tế, chính trị, xã hội; khẳng

định trong tình hình hiện nay, hiện đại hoá chỉ có thể thành công nếu bản sắc dân

tộc được sử dụng như một động lực chủ yếu, đồng thời BSVHDT cũng chỉ có

thể được phát huy trong một đất nước hiện đại hoá.

Các nhà khoa học từ những góc nhìn khác nhau đã đưa ra các luận chứng

khoa học để luận giải, khẳng định và chứng minh mối quan hệ biện chứng của

hai mặt trong quá trình hình thành bản sắc văn hoá Việt Nam luôn xuyên suốt

14

lịch sử dân tộc, chính nó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc, là một trong những

yếu tố cơ bản, quyết định giúp dân tộc Việt Nam vượt qua muôn vàn thử thách

khó khăn trường tồn và phát triển bền vững cho đến ngày nay. Lịch sử quá trình

phát triển, bồi đắp hệ thống giá trị tinh hoa của bản sắc văn hóa Việt Nam cho

thấy, trong quá trình chống chọi với sự đồng hoá, xâm lăng về văn hoá của ngoại

bang, dân tộc ta một mặt vẫn giữ được bản sắc văn hoá của mình, mặt khác đã

tiếp biến văn hoá bên ngoài để thường xuyên làm giàu BSVHDT mình. Điều đó

cho thấy, ngay từ rất sớm cha ông ta đã thường xuyên tiếp nhận sự giao lưu văn

hoá dân tộc với các nền văn hoá khác, qua đó nâng BSVHDT lên tầm cao mới,

khẳng định bản lĩnh, cốt cách của con người và cộng đồng dân tộc Việt Nam

trước các nền văn hoá khác.

Về vai trò tư tưởng lý luận với văn hoá, Giáo sư Nguyễn Đức Bình đã đi

sâu phân tích làm sáng tỏ về cơ sở lý luận thực tiễn trong quan điểm, đường lối

của Đảng về tư tưởng văn hoá, BSVHDT trong bối cảnh toàn cầu hoá; mối quan

hệ văn hoá tư tưởng chính trị trong cuộc đấu tranh về tư tưởng lý luận hiện nay,

đặc biệt đi sâu phân tích làm rõ về thực chất của HNQT, thời cơ và thách thức

với các nước phát triển trong quá trình toàn cầu hoá, tạo cơ sở lý luận cho việc

làm rõ sự cần thiết giữ gìn BSVHDT hiện nay.

Gần đây, công trình: “Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011- 2020.

Những vấn đề phương pháp luận”[29] do PGS, TS Phạm Duy Đức làm chủ biên.

Công trình này gồm nhiều bài viết của các nhà khoa học, trong đó có các bài tiêu

biểu của Đỗ Huy, Trần Văn Bính, Phạm Duy Đức… Trong các bài này tác giả

đã đề cập về thế giới quan, phương pháp luận khoa học để phát triển nền văn hoá

Việt Nam trong xu thế HNQT ngày càng sâu rộng. Các tác giả trên cơ sở tổng

kết thực tiễn 25 năm xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc, làm rõ cơ sở lý luận thực tiễn của nền văn hoá, vai trò lãnh

đạo quản lý của Đảng Nhà nước về văn hoá, chỉ rõ các mối quan hệ văn hoá với

các lĩnh vực kinh tế xã hội, chỉ rõ quan điểm giải pháp có tính đột phá để phát

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!