Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thái độ của bị cáo với hành vi phạm tội của mình trong hoạt động xét xử tại tòa án nhân dân tỉnh quảng nam.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
C N N
C SƢ P M
KHOA TÂM LÝ – ÁO DỤC
K ÓA LUẬN TỐT N ỆP C
Thái độ của bị cáo với hành vi phạm tội của mình trong hoạt
động xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Minh Tân
Chuyên ngành: Tâm lý Giáo dục
Ngƣời hƣớng dẫn : Phạm Thị Mơ
Đà Nẵng, tháng 5/ 2013
A.PHẦN MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay tình trạng phạm tội ở nước ta và cả trên thế giới đang ngày càng gia tăng,
không chỉ về mặt số lượng mà cả về mặt tính chất của vụ án, càng nghiêm trọng hơn là
làm nguy hại đến tính mạng của nhân dân, tiền bạc của nhà nước, vi phạm đạo đức, đánh
mất tính nhân đạo của con người. Việc truy tố trách nhiệm hình sự của tội phạm nhằm xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đặt ra một nhiệm vụ vô cùng lớn lao cho cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và ngành Tòa án. Bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra quyết định
xét xử, điều đó có nghĩa là khi một công dân đã thực hiện (hoặc bị cho là đã thực hiện)
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ cho xã hội được luật hình sự
bảo vệ, bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử về vụ án hình sự.
Những biểu hiện của bị cáo tại phiên tòa phần lớn phụ thuộc vào các yếu tố như phẩm
chất tâm lý của bị cáo, thế giới quan của bị cáo, thái độ của bị cáo đối với việc bị buộc tội,
sự đánh giá về hành vi phạm tội của bị cáo, kinh nghiệm tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố
tụng bị cáo. Vì vậy việc tìm hiểu thái độ của bị cáo sẽ góp phần lớn cho thành công của
vụ án. Được biệt là chú ý là phải đánh giá được chính xác thái độ của bị cáo, từ đó sẽ có
biện pháp giáo dục, răng đe hợp lý tại Tòa và trong quá trình cải tạo.
Những năm gần đây tình trạng phạm tội của tội phạm xảy ra ngày càng nhiều và diễn
biến tâm lý ngày càng phức tạp vượt xa quy luật cũ. Khi đối mặt với thẩm phán tại tòa
chúng cũng tỏ thái độ rất khác với dự định, với suy nghĩ của Hội đồng xét xử, của những
người tham gia theo dõi xử án. Bị cáo gan lì hơn trước tòa, thách thức cả Hội đồng xét
xử,… đã đặt ra câu hỏi cho rất nhiều người: nguyên nhân là vì đâu? Thái độ của bị cáo tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam cũng không nằm ngoài quy luật này.
Đây là vấn đề nhức nhối cho toàn xã hội, nó làm cản trở sự phát triển của xã hội. Vì
vậy cả xã hội và những cơ quan chuyên trách cần có những biện pháp để tìm hiểu thái độ
của bị cáo nhằm có được những lời khai thành khẩn của bị cáotrước tòa và giáo dục được
bị cáonhận thức về hành vi phạm tộicủa mình và không tái phạm. Muốn làm được những
điều đó thì cần phải tìm hiểu nguyên nhân của việc phạm tội và những biểu hiện, cách thể
hiện thái độ của bị cáo trước tòa để có biện pháp thích hợp.
Đó là lý do mà tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thái độ của bị cáo với hành vi phạm
tội của mình trong hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thái độ của bị cáo trước tòa đối với hành vi phạm tội của mình tại Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất những biện pháp nhằm nhận diện được thái độ tiêu cực của bị cáo và giúp bị
cáo thay đổi thái độ trở nên tích cực trong hoạt động xét xử.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận.
- Quan sát những biểu hiện về thái độ của bị cáo tại tòa trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất những biện pháp tâm lý áp dụng đối với bị cáo để hạn chế tình trạng thái độ
tiêu cực đồng thời giúp quá trình xét xử được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng.
4. ối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu: Thái độ của bị cáo với hành vi phạm tội của mình trong
hoạt động xét xử tại Tòa án.
4.2.Khách thể nghiên cứu: 300 bị cáo trong hồ sơ lưu trữ được xét xử tại Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Nam.
4.3.Phạm vi nghiên cứu:
- Thái độ của 300 bị cáo đối với hành vi phạm tội của mình trong hoạt động xét xử tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam trong hai năm 2012 – 2013.
- Không gian: Phòng xử án hình sự và phòng lưu trữ hồ sơ của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Thời gian: Đề tài này được tiến hành nghiên cứu từ tháng 1/2013 đến 5/2013.
5. Giả thuyết khoa học
Nhìn chung đa số bị cáo đã tỏ thái độ đúng đắn đối với hành vi phạm tội của mình
trước tòa. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên một số bị cáo thể hiện thái độ
tiêu cực với hành vi phạm tội của mình. Nhưng trong quá trình xử án nhờ nhận được sự
giáo dục của Hội đồng xét xử mà rất nhiều bị cáo đã thay đổi thái độ từ tiêu cực sang tích
cực.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1.Nhóm phương pháp lý thuyết
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp hệ thống hóa
- Phương pháp khái quát hóa
6.2.Nhóm phương pháp thực tiễn
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp trò chuyện cùng với chuyên gia trong công tác lấy lời khai
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Trong đó phương pháp nghiên cứu hồ sơ và phương pháp quan sát là những phương
pháp đóng vai trò chủ yếu trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
A.PHẦN NỘI DUNG
C ƢƠN . CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA Ề TÀI
1.1.Tổng quan các công trình nghiên cứu về thái độ của bị cáo trong phiên tòa
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về thái độ của bị cáo ở nước ngoài
Trên thực tế cả ở nước ngoài và trong nước các công trình nghiên cứu về thái độ của
bị cáo tại phiên tòa rất ít, phần lớn thái độ của bị cáo chỉ là một phần nhỏ trong các công
trình nghiên cứu khác. Trong các công trình đó có thể kể đến một số công trình sau:
Atonhia.Iu.I,Enhikev.M.I,Ieminov.V.E, Tâm học tội phạm và điều tra tội phạm, Nxb
Pháp lý Matscơva, 1996 (bằng tiếng Nga); Trupharovski.Iu.V, Tâm lý học pháp lý, Nxb
Nhà nước và Pháp luật, Mastcơva, 1997 (tiếng Nga); Vaxilex.V.L, Tâm lý học pháp lý,
Matscơva, 1997 (tiếng Nga); Strogovitra.M.X, Những vấn đề về đạo đức tư pháp, Nxb
khoa học Matscơva, 1974 (tiếng Nga),… Tất cả các đề tài trên chỉ nghiên cứu về tội phạm
là chính, nhưng trong đó cũng có một phần về việc xét xử bị cáo tại tòa và những phương
pháp để lấy lời khai của bị cáo làm sao cho thuận lợi có được sự hợp tác của bị cáo.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thái độ của bị cáo ở trong nước
Hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu riêng về thái độ (TĐ) của bị cáo (BC) trong
Hoạt động xét xử tại tòa, hầu hết những nghiên cứu về TĐ chỉ nằm trong một phần nhỏ
của các công trình nghiên cứu về tội phạm, bị can, BC. Ta có thể nhận thấy trong một số
công trình sau: Trương Am (2001), Tác động tâm lý trong hoạt động điều tra hình sự,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và
phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Hồ Ngọc Hải, Vũ Dũng (1993),
Các phương pháp của tâm lý học xã hội, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội; Trương Ngôn
(1995), Giáo trình tâm lý pháp lý, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân; Đặng Hồi Loan,
Nguyễn Thanh Nga, Tâm lý học pháp lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội; Th.S Chu Liên
Anh và Th.S Dương Thị Loan, Giáo trình tâm lý học tư pháp, Nxb giáo dục Việt Nam;…
Các đề tài này nghiên cứu phần lớn chỉ nghiên cứu về tội phạm và BC dưới góc độ luật
học và xã hội học.
Nhìn chung, các công trình khoa học này tiếp cận nghiên cứu vấn đề tội phạm và bị
can, BC dưới nhiều góc độ, phương diện, cấp độ khác nhau. Các công trình trên đã đánh
giá được thực trạng tội phạm gây ra ở nước ta ở nhiều khía cạnh khác nhau, góc độ và địa
bàn khác nhau và đã đưa ra được giải pháp phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Đưa ra
được những biện pháp để lấy lời khai BC một cách nhanh chóng, để BC thành khẩn khai
báo trước tòa.
Tính đến thời điểm này chưa có đề tài nào nghiên cứu về TĐ của BC đối với hành vi
phạm tội (HVPT) của mình trong hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
(TANDTQN). Trong đề tài này chúng tôi tiếp cận nghiên cứu BC dưới góc độ tâm lý học
để tìm ra được những góc khuất tâm lý của loại tội phạm này. Từ đó đưa ra các giải pháp
tâm lý nhằm phòng ngừa, hạn chế thực trạng này và đưa ra những biện pháp nhằm giúp
quá trình xử án được nhanh chóng, lấy được sự thành khẩn của BC.
1.2.Những vấn đề lý luận liên quan đến nội dung nghiên cứu
1.2.1. Thái độ
1.2.1.1. Khái niệm về thái độ
TĐ là một hiện tượng tâm lý được nghiên cứu nhiều trong tâm lý học xã hội, ngay từ
năm 1935 trong “sổ tay tâm lý học xã hội” Allport đã cho rằng “TĐ có lẽ là khái niệm
phân biệt nhất và quan trọng nhất trong tâm lý học hiện đại xã hội Mỹ”. Nhiều nhà khoa
học đã định nghĩa TĐ xã hội thực tế là khoa học nghiên cứu các TĐ. Có nhiều người cho
rằng quan điểm đó là thái quá. Nhưng thực tế mấy chục năm qua đã chứng minh rằng
tuyên bố của Allport có giá trị dự đoán. Năm mươi năm sau, năm 1985 trong cuốn “sổ tay
tâm lý học xã hội” của tác giả Kiliam McGuire, ông đã tổng kết rằng “TĐ và sự thay đổi
TĐ vẫn là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học xã hội”.
Người đầu tiên sử dụng khái niệm TĐ như một đặc tính quan trọng của một vấn đề là
Thomas và Znanicki – hai nhà nghiên cứu Mỹ. Trong những nghiên cứu của mình về TĐ
hai ông cho rằng: TĐ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị.
Allport lại coi nhân cách như là một tổ chức bên trong cơ động, một cái tôi siêu hình
nào đó bao gồm các mục đích, các TĐ được hiện thực hoá bằng hành vi và tư duy. Năm
1935 ông định nghĩa: “TĐ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ
chức thông qua kinh nghiệm sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động trong phản
ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có mối quan hệ”. “TĐ là
cách phản ứng của một người theo cách có lợi hoặc bất lợi với các đối tượng và tình
huống mà người đó gặp phải”. Định nghĩa này bao hàm cả nghĩa TĐ là trạng thái sẵn sàng
của tâm thần kinh cho hoạt động tâm lý hoặc sinh lý, TĐ chuẩn bị, định hướng cho cá
nhân với một hoạt động nào đó và TĐ điều chỉnh hành vi của con người.
Tiếp cận dưới quan điểm của tâm lý học nhân cách Guilford (1964) đã cho rằng nhân
cách là cấu trúc độc đáo, có cấu trúc gồm 7 khía cạnh (nhu cầu, hứng thú, khí chất năng
lực, giải phẫu hình thành, TĐ) để đưa ra khái niệm về TĐ. Theo ông: TĐ là những cử chỉ,
phong thái, ý nghĩ liên quan đến những hoàn cảnh xã hội. Ở khái niệm này ông chỉ ra rằng
TĐ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với những hoàn cảnh xã hội cụ thể.
Cũng tiếp cận theo quan điểm này thì Miaxisev lại cho rằng: TĐ là nòng cốt của nhân
cách, là điều kiện khách quan bên trong của hệ thống các hành vi con người, và là mặt
quan trọng biểu hiện rõ nhất trong nhân cách con người.
R.Martens lại cho rằng “TĐ là xu hướng thường xuyên đối với tình huống xã hội, nó
biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành động. TĐ của con người có mối quan
hệ chặt chẽ với hành vi bởi thế được xác định bởi tính thống nhất bên trong. Quan điểm
này khẳng định TĐ là một cấu trúc có hệ thống, TĐ thể hiện ý nghĩ, xúc cảm bên trong
con người mà được biểu hiện thông qua hành vi. Và quan điểm của Martens giống với
quan điểm của Guilford về TĐ.
Hfillmore thì định nghĩa: TĐ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với
đối tượng hay các đối tượng hay các ký hiệu trong môi trường TĐ là sự định hướng của
cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của môi trường và là cấu trúc có tính cơ động.
Theo Newcome thì TĐ của cá nhân đối với một khách thể nào đó là: “Thiên hướng
hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể liên quan”. Đó là sự sẵn
sàng phản ứng. Những gì mà chúng ta tin là đúng và có một TĐ nhất định về một khách
thể nào đó hay một nhóm nào đó sẽ đóng một vai trò hiển nhiên trong việc quy định sự
sẵn sàng phản ứng theo một cách thức nhất định của chúng ta. Tuy nhiên định nghĩa này
chưa bao hàm một thực tế rằng trong nhiều trường hợp quá trình này diễn ra phức tạp hơn
nhiều.
Tác giả Philipkotkie thì cho rằng: TĐ là sự đánh giá tốt hay xấu của cá thể được hình
thành trên cơ sở tri thức hiện có và bền vững về một khách thể hay một ý tưởng nào đó
quy định phương hướng hành động. Định nghĩa này chỉ ra được mặt đánh giá của cá nhân
với một sự vật hiện tượng nào đó trong cuộc sống, chính sự đánh giá là tốt hay xấu này
quy định TĐ của cá nhân đối với sự vật hiện tượng đó.
Như vậy các định nghĩa trên của các nhà tâm lý học được diễn đạt bằng nhiều hình
thức khác nhau nhưng đều có chung một điểm là nghiên cứu TĐ theo quan điểm chức
năng TĐ định hướng hành vi ứng xử các vấn đề xã hội.
Ở Việt Nam cũng có những tác giả và tài liệu đề cập đến vấn đề TĐ.
Trong Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê (chủ biên) cho rằng: “TĐ là tổng thể nói
chung những biểu hiện ra ngoài (nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm
đối với ai hoặc sự kiện nào đó trước một vấn đề.
Theo từ điển Tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện thì trước một đối tượng nhất định,
nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay
chống đối như đã có sẵn, tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi phối về vấn đề thì
TĐ gắn liền với tâm thế.
Trong từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên) thì lại cho rằng: TĐ là những phản ứng
tức thì tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn những cơ
cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó.
Trong Tâm lý học xã hội TĐ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để phản ứng lại tình
huống gắn liền với một cá nhân đó. Và đối với một số nhà tâm lý học Việt Nam TĐ
thường là biểu hiện của tính cách. TĐ chính là phản ứng của con người trước thực tiễn
môi trường sống, TĐ đó có thể là tiêu cực hoặc tích cực tuỳ thuộc vào nhận thức cũng
như xúc cảm của cá nhân trước sự việc đó như thế nào.
Qua đó ta thấy cả trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều các định nghĩa khác nhau
về TĐ, mỗi định nghĩa thường tiếp cận dưới một góc độ nhưng đều có những điểm chung
nhất định về khái niệm TĐ. Qua việc phân tích khái niệm của các tác giả về TĐ, nắm bắt
được những nội hàm cơ bản trong khái niệm TĐ, đề tài lựa chọn khái niệm TĐ trong từ
điển Tâm lý học do Nguyễn Văn Lũy – Lê Quang Sơn (đồng chủ biên) thì cho rằng: “TĐ
là khuynh hướng đáp ứng bằng tán thành hay không tán thành đối với một sự vật, con
người, thiết chế hay sự kiện. Con người có thể biểu lộ TĐ với mức khác nhau đối với bản
thân và với bất cứ lĩnh vực nào của môi trường xung quanh. Những TĐ tích cực, được
chia sẽ rộng rãi trong cộng đồng đối với những mục tiêu trừu tượng (như tự do, trung
thực, sự an toàn) được gọi là các giá trị (value)”.
1.2.1.2. Lý thuyết về thái độ
- Thuyết hành động hợp lý:
Ajzen và Fishbein phát triển lý thuyết hành động hợp lý trên cơ sở giả định rằng con
nguời thưòng hành xử theo cách nhạy cảm, tính đến thông tin và TĐ của mình trong hành
động.
Trong mô tả này xuất phát từ sự kết hợp hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất là TĐ của cá
nhân trái với hành vi hay những quan điểm của họ. Thứ hai là nhận thức áp lực xã hội của
cá nhân phải thực hiện hay không thực hiện hành động, điều này gọi là tiêu chuẩn chủ
quan. Có nghĩa là chúng ta chú ý thực hiện một hành vi nếu chúng ta đánh giá nó tích cực
và thấy rằng hành vi đó đã được xã hội chấp nhận, ủng hộ, chúng ta thuờng hành động
theo những chuẩn mực, tiêu chuản thuờng có trong xã hội. Những điều này dựa vào kinh
nghiệm của bản thân truớc một sự vật hiện tượng nào đó, trên cơ sở kinh nghiêm gắn kết
với hành vi của chúng ta theo một tình huống cụ thể, từ đó đánh giá hành vi đó là hợp lý
hay không hợp lý, khi đó sẽ hình thành nên TĐ của cá nhân.
Những tiêu chuẩn xã hội này chủ yếu nằm trong một nhóm xã hội cụ thể. Và khi cá
nhân tham gia vào một nhóm xã hội nào đó sẽ cũng thực hiện theo những tiêu chuẩn,
chuẩn mực này.
- Thuyết cân bằng của Heider:
Ông cho rằng tìm hiểu nhận thức hay quan điểm của con người về các mối quan hệ
của họ là tiền đề để tìm hiểu các hành vi xã hội của họ. Theo ông con nguời luôn có mong
muốn TĐ của mình sẽ luôn nhất quán với nhau, do đó nếu nó không nhất quán sẽ gây nên
tình trạng mất cân bằng nhận thức, điều này có thể dẫn đến sự mệt mỏi, căng thẳng cho
con nguời, vì vậy họ sẽ luôn có xu huớng tìm kiếm sự cân bằng trong TĐ.
Heider áp dụng nguyên tắc cân bằng bộ đôi và bộ ba trong việc tìm hiểu các mối quan
hệ cá nhân và tìm hiểu TĐ. Mối quan hệ dễ chịu giữa hai nguời là cân bằng bộ đôi, nếu
mối quan hệ mất cân bằng sẽ gây nên sự hiểu lầm, căng thẳng và có thể phá vỡ mối quan
hệ. Ông cho rằng căng thẳng tạo nên bộ ba, mất cân bằng cũng tạo ra áp lực thay đổi sao
cho chúng ta lấy lại sự cân bằng nhận thức. Những điều này liên quan đến những tình
huống trực tiếp và cụ thể khác nhau.
Sau này, các nhà nghiên cứu thường có cái nhìn tích cực hơn so với bộ ba và đánh giá
rằng con người chúng ta thường có TĐ tích cực nhiều hơn là tiêu cực. Chúng ta thấy bộ
ba có TĐ tích cực giữa một cá nhân với một đối tượng TĐ dễ học và dễ nhớ hơn.
- Thuyết đồng hoá tương phản:
Sherif và Hovland cho rằng con người thường sử dụng kinh nghiệm cá nhân của riêng
mình như mọt chuẩn đánh giá các phát biểu khác. Vì thế nếu cá nhân đó nhận thấy rằng
việc đó là có thể chấp nhận được sẽ đánh giá có lợi hơn và tích cực hơn giống với suy
nghĩ của họ so với thang điểm chung. Điều này gọi là tác dụng đồng hoá.
Từ đó hai ông dự đoán rằng có tác dụng tương phản tức là ta sẽ có đánh giá và phát
biểu mang tính cực đoan tiêu cực hơn nếu nó trái với nhìn nhận kinh nghiệm của cá nhân
ta. Và nếu những phát biểu này mang tính kinh nghiệm cá nhân trong một giới hạn nhất
định nào đó thì ta hoàn toàn có thể thay đổi TĐ đó được, và nó nằm trong một phạm vi
gọi là phạm vi chấp nhận được. Con người cũng sẽ dễ dàng thay đổi những quan niệm của
mình về một sự vật hiện tượng nào đó để những phát biểu và hành vi của mình trở nên
phù hợp hơn so với người khác và so với những chuẩn mực chung. TĐ này dễ dàng thay
đổi nếu những quan niệm, suy nghĩ, cách đánh giá của họ về một điều gì đó là không
được chắc chắn lắm.