Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Y HỌC pdf
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY CÔNG
TRÌNH NGHIÊN CỨU Y HỌC
CÁC TÁC GIả
Bác sỹ Claude-Laurent Benhamou, nhà thấp khớp học ở Trung tâm bệnh viện vùng Orléans, là thành
viên của Ban biên tập tạp chí Thấp khớp và các bệnh Xương-Khớp. Ông đã từng chủ trì các buổi thảo
luận giảng dạy về phương pháp viết báo y học ở trường đại học Tours, nơi mà ông từng là thư ký của
đơn vị giúp đỡ viết báo y học.
Bác sĩ Loic de Calan, Giáo sư phẫu thuật tiêu hoá tại đại học Tours, đã từng là thành viên của Ban biên
tập tạp chí Gastroenterologie Clinique et Biologique. Ông chủ trì các buổi thảo luận giảng dạy về
phương pháp viết báo y học ở trường đại học Tours.
Bác sĩ Dominique Franco, Giáo sư về phẫu thuật tiêu hoá ở đại học Paris Sud, đã từng là tổng biên tập
tạp chí Gastroenterologie Clinique et Biologique. Bác sĩ Jean Paul Galmiche, Giáo sư chuyên ngành
Gan-Tiêu hoá tại trường đại học Nantes, đã từng là tổng biên tập tạp chí Gastroenterologie Clinique et
Biologique. Ông là người sáng lập và lãnh đạo tạp chí chuyên về đào tạo y học liên tục "Hépato-Gastro".
Ông là thành viên ban biên tập tạp chí “Gut” và tạp chí "European Journal of Gastro-Enterology and
Hepathology". Bác sĩ Bernard Grenier, Giáo sư danh dự của đại học Y khoa Tours, đã chủ trì các buổi
sinh hoạt khoa học đào tạo chuyên ngành về phân tích các quyết định y học, về phương pháp đọc và
phân tích cũng như biên tập báo y học ở nhiều trường đại học Pháp ngữ.
Bác sĩ Michel Huguier, Giáo sư chuyên ngành phẫu thuật tiêu hoá ở đại học Paris VI, đã từng là thành
viên ban biên tập tạp chí Gastroentérologic Clinique et Biologique. Ông là đồng biên tập của tạp chí
Hepato-Gastroenterology và phó biên tập tạp chí Chirurgie. Ông là chủ tịch của Hội vì sự phát triển
giảng dạy và nghiên cứu trong viết báo y học (ADERREM) và chủ trì các buổi thảo luận giảng dạy về
viết báo y học.
Bác sĩ Gérard Lorette, Giáo sư chuyên ngành Da liễu trường đại học Tours. Ông là tổng biên tập tạp chí
Annales de Dermatologie. Ông là Giám đốc bộ phận nhận bài của nhà xuất bản Doin. Ông chủ trì các
buổi thảo luận giảng dạy viết báo y học ở Pháp và ở nước ngoài.
Bác sĩ Hervé Maisonneuve là giám đốc bộ phận thẩm định của cơ quan quốc gia về tín nhiệm và đánh
giá trong y tế (ANAES). Ông đã từng là chủ tịch Hiệp hội Âu Châu của các nhà xuất bản khoa học. Ông
là thành viên các ban biên tập (JAM, Journal of Evaluation in Clinical Pratice) và đã chủ trì các hội thảo
về giảng dạy viết báo y học
LờI NÓI ĐầU
Mục đích của cuốn sách này là nhằm giúp cho những ai muốn viết một luận án, một bản thu hoạch hay
một bản báo cáo khoa học. Sách trình bày những nguyên tắc viết một tài liệu khoa học y học (chương 1
và 2) và cách sử dụng chúng trong công trình nghiên cứu (chương 3 đến chương 13). Hiểu biết những
nguyên tắc này giúp cho tác giả biết cách viết một cách chính xác, rõ ràng và súc tích. Bên cạnh giá trị
khoa học của công trình, nó góp phần làm cho công trình nghiên cứu được Ban biên tập của các tạp chí
khoa học chấp nhận. Rất nhiều trong số những nguyên tắc này cũng có thể áp dụng để viết một bài giảng
hay một cuốn sách. Hiểu biết các nguyên tắc viết bài trong y học cũng giúp cho việc nhận biết những bài
báo kém sáng sủa, không chuẩn xác hay thiếu súc tích. Để tiết kiệm thời gian thì không cần đọc những
bài như vậy.
Để viết một bài báo cần phải biết có thể tìm tài liệu tham khảo ở đâu và như thế nào. Chủ yếu nhờ vào
công nghệ tin học, ta sẽ thực hiện việc lựa chọn nhanh lần đầu các tài liệu và lưu trữ thông tin để có thể
sử dụng dễ dàng: chương 14 dành cho vấn đề này.
Các tác giả thường không biết con đường của một bài báo từ khi gửi bản thảo tới một tạp chí cho tới khi
nó được đăng. Điều này tác động ngay tới chính việc viết bài báo. Thông tin này nằm trong chương 15.
Chương cuối cùng của cuốn sách cho những lời khuyên để chuẩn bị trình bày báo cáo miệng hay dùng
bảng trưng bày (poster) trong một hội nghị khoa học.
Chương 1
PHƯƠNG PHÁP VIếT BÁO KHOA HọC
Cách viết một bài báo khoa học đồng thời vừa là yếu tố cơ bản, vừa là yếu tố phụ của nội dung bài báo.
Để có thể hiểu rõ về sự tưởng như đối nghịch này, ta có thể ví cách viết như mặt kính của một bể nuôi cá
cảnh, nội dung khoa học của bài báo như những con cá nuôi trong bể này (1). Lợi ích mà cách viết mang
lại là rất quan trọng: nếu mặt kính của bể cá mờ đục thì không thể chiêm ngưỡng những gì chứa bên
trong dù nó có đẹp đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên tự bản thân cách viết không mang lại mục đích vì
chẳng ai ngắm một cái bể cá chỉ vì cái mặt kính. Học cách viết cũng giúp ta biết cách đọc tốt hơn. Trên
thực tế, một độc giả nắm được cách viết sẽ nhận ra dễ dàng lợi ích khoa học của một bài báo được viết
chuẩn xác nghĩa là viết một cách chính xác, rõ ràng và súc tích. Một bài báo không chính xác, tối nghĩa,
với những chỗ lạc đề, sẽ làm cho người đọc phải mất một thời gian dài cố gắng, đôi khi một cách vô
vọng, để tìm hiểu nội dung bài báo. Hiểu biết những nguyên tắc viết bài báo khoa học cho phép người
đọc loại bỏ ngay khi mới xem qua những bài báo không tôn trọng những nguyên tắc này. Do đó người
đọc sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian mà không sợ bỏ sót một thông điệp khoa học ẩn chứa trong một
bài báo trình bày tồi vì nguy cơ này rất thấp. Kinh nghiệm cho thấy thường có sự đồng hành giữa nội
dung và hình thức: "những gì người ta biết rõ thì sẽ được trình bày rõ ràng" (2). Hệ quả là những gì
không rõ ràng thường chứa đựng một lợi ích khoa học rất hạn chế.
MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC VIẾT BÁO KHOA HỌC
Mục đích đặc trưng của việc viết báo y học là truyền đạt một thông điệp khoa học mà thể thức thường
gặp là bài báo đăng kết quả nghiên cứu hay là "Bản báo cáo nghiên cứu". Mục đích này giải thích rõ
cách viết bài báo khoa học phải là một kỹ thuật xuất phát từ khoa học chứ không xuất phát từ văn
chương hay thơ ca. Trên thực tế, việc viết báo khoa học được hướng dẫn bởi những nguyên tắc tự bản
thân nó nói lên tính chặt chẽ khoa học. Đó phải là những nguyên tắc xuất hiện dần, đáp ứng theo một
logic chứ không phải là những giáo điều áp đặt. Ví dụ, các tài liệu tham khảo phải được trình bày sao
cho người đọc có thể tham chiếu dễ dàng nhất. Điều này không tuân theo một quy tắc duy nhất: Có
nhiều hệ thống tham khảo mà mỗi hệ thống đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng. Tuy nhiên các tạp chí
y học tìm cách tốt nhất để trình bày tài liệu tham khảo một cách hài hoà(3).
Mục đích thứ hai của cách trình bày một bản báo cáo khoa học không phải là một mục đích đặc biệt: đó
là phải viết sao cho để bài báo được độc giả hưởng ứng. Trong văn chương, mục đích này đạt được nhờ
cốt truyện hấp dẫn, sự giàu có về từ vựng, văn phong của tác giả. Trong khoa học, giá trị của nội dung
khoa học là trên hết. Tuy nhiên sự xuất hiện ngày càng nhiều các tạp chí và bài báo y học làm cho người
đọc phải chọn lựa nên đọc cái gì (4). Khi lợi ích khoa học tương đương nhau, chúng ta có xu hướng đọc
các bài báo rõ ràng, chính xác, và súc tích hơn. Do vậy, chúng ta chỉ đặt mua những tạp chí nào có
những bài báo đáp ứng những nguyên tắc đó nhiều nhất. Hơn nữa, thường những tạp chí có uy tín là nơi
thu hút được những bài có giá trị. Những tạp chí đó có nhiều khả năng chọn lựa bài: Tạp chí British
Medical Journal nhận được khoảng 5000 bài báo gửi đăng một năm mà chỉ có 600 bài được đăng. Một
nửa số bài báo gửi đến thậm chí không nhận được sự phân tích tỷ mỷ vì đó không phải là những bài báo
đăng kết quả nghiên cứu, hoặc quá chuyên sâu, tối nghĩa hoặc có giá trị tầm thường về mặt khoa học (5).
Ba tiêu chuẩn chất lượng một bài báo khoa học gồm:
1) Giá trị khoa học;
2) Chất lượng của sự trình bày khoa học;
3) Sử dụng thành thạo thứ ngôn ngữ dùng viết bài báo.
Rất tiếc một thực trạng đã xảy ra là sự xuất hiện bùng nổ các bài báo và tạp chí do sự cần thiết phải có
danh mục công trình nghiên cứu, sự cần thiết phải đăng bài để có số lượng bài báo (6). Sự cần thiết phải
đăng báo dù với động cơ nào đi nữa đã làm xuất hiện cả những sự không trung thực. Tháng 4 năm 1987
vấn đề này đã trở thành chủ đề một cuộc bàn luận ở Hội nghị khoa học Hoa Kỳ(7). Người ta đã đề nghị
lập ra một uỷ ban kiểm tra và cả hình thức phạt trong trường hợp gian lận khoa học! Phương thuốc tốt
nhất có lẽ là sự tiến bộ trong cách nhìn nhận của các thành viên các hội đồng thi hay các uỷ ban quy
định số lượng bài báo. Việc cho điểm đánh giá các tạp chí khoa học có thể là một cách xác định giá trị
các tạp chí nào chỉ nhận đăng các bài báo có chất lượng. Trường đại học Y Havard đã đề nghị một biện
pháp phòng ngừa có tính hiện thực: Trường này yêu cầu các ứng viên dự tuyển chỉ xuất trình một số
lượng hạn chế các công trình của họ: 7 công trình với ứng viên cho vị trí phó giáo sư, 10 công trình cho
vị trí giáo sư (7). Cũng với tinh thần đó mà người ta yêu cầu các ứng viên cho giải thưởng Nobel hay
Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ chỉ trình tối đa 12 công trình (8). Nhưng đối với hội đồng xét
duyệt thì đếm đầu các bài báo dễ hơn là đọc bài báo đó (9).
VIẾT BÁO KHOA HỌC VÀ VIỆC SỬ DỤNG TỐT NGÔN NGỮ
Các nguyên tắc viết một bài báo khoa học trong bất cứ trường hợp nào cũng không bỏ qua việc tôn trọng
các quy tắc ngữ pháp dù viết ở ngôn ngữ nào chăng nữa. Sự trộn lẫn giữa việc viết báo khoa học với
việc sử dụng không tốt ngôn ngữ thể hiện sự lẫn lộn hoàn toàn giữa hai khái niệm khác nhau: Nguyên
tắc viết bài và ngữ pháp. Ví dụ: thật là kỳ lạ khi Ban biên tập của một tạp chí lại có thể bảo vệ được văn
phong y học của ngôn ngữ trong khi chấp nhận đăng một bài báo có những câu không thể hiểu được đại
loại như: “chỉ có thể nghĩ tới một carcinome epidermoide tiên phát và một Sarcome là chẩn đoán vì bệnh
phẩm phẫu thuật đã bị làm hỏng do điều trị coban trước đó”.
Chặt chẽ, sáng sủa, súc tích
Khi một tác giả băn khoăn về cách viết một câu, một đoạn hay một chương nào đó, người đó phải trả lời
được 3 câu hỏi sau đây:
1) Dạng thức nào thích hợp nhất với ý tưởng và hiện tượng mà ta muốn trình bày?
2) Kiểu diễn đạt nào là đơn giản và rõ ràng nhất cho người đọc?
3) Kiểu diễn đạt nào súc tích nhất?
Ba câu hỏi này có tầm quan trọng giảm dần: Đừng hy sinh sự chặt chẽ cho lối hành văn sáng sủa cũng
như không hy sinh sáng sủa cho sự súc tích.
HỌC CÁC NGUYÊN TẮC PHỔ BIẾN TOÀN CẦU TRONG VIẾT BÁO KHOA HỌC
Các nguyên tắc viết báo khoa học không phải là tự nhiên mà có: Để biết đọc thì chỉ biết các chữ cái thôi
chưa đủ; cũng như vậy, để viết đúng một bài báo khoa học thì việc biết viết bằng một thứ ngôn ngữ nào
đó vẫn chưa đủ. Vì vậy việc học những nguyên tắc viết báo khoa học dù rất đơn giản là cần thiết.
Việc cần thiết phải dạy những nguyên tắc này đã được đặt ra từ lâu ở nhiều nước (10). Ví dụ ở Hoa Kỳ,
những khoa giảng dạy phương pháp viết báo khoa học đã được thành lập ở các trường đại học: L.
Debakey lãnh đạo khoa thông tin khoa học (11) tại trường đại học Y Baylor ở Houston,. F.P Woodford
đã sáng lập chương trình giảng dạy 18 tháng cho các biên tập viên khoa học chuyên nghiệp (12) tại
trường đại học Rockerfeller ở New York. Tại Mayo Clinic ở Rochester đã tổ chức chương trình giảng
dạy về viết báo khoa học cho sinh viên và các thầy thuốc (13). Khoa xuất bản y học giúp các thầy thuốc
viết các công trình ngay từ khi có ý tưởng. Cách làm này là sự bổ sung tốt nhất cho việc giảng dạy lý
thuyết (14).
Ở Anh cách viết công trình khoa học đã được dạy ở Viện khoa học và kỹ thuật Cardiff. Những chương
trình giảng dạy tích cực đã được tổ chức dưới sự lãnh đạo của S. Lock, "biên tập viên" của tạp chí
British Medical Journal (15).
Ở Pháp, G. P. Revillard đã nêu lên sự cần thiết phải giảng dạy về kỹ thuật viết các bản thu hoạch nghiên
cứu trong chương trình học sau đại học "3ème cycle" (16). Năm 1975, J. A. Farfor đã đề nghị thành lập
một tổ chức giảng dạy cách viết công trình y học ở ba mức độ (1,17): 1) Một đợt giảng có thời lượng vài
giờ cho sinh viên y khoa năm thứ nhất hay thứ hai để giúp họ viết một bệnh án và trả lời các câu hỏi thi;
2) Một khoá học từ bốn đến sáu buổi rưỡi cho các sinh viên đại học năm thứ ba giúp họ viết luận án và
nhất là các bản tóm tắt nghiên cứu; 3) Một khoá giảng sâu hơn nhiều dành cho các bác sĩ khi họ hợp tác
với ban biên tập các tạp chí y học. Mặc dù khá muộn màng so với các nước khác, việc giảng dạy về
phương pháp viết công trình y học đã được bắt đầu nhờ những ý tưởng của từng cá nhân, nhất là ở Paris,
Tours, Nantes, Angers, Lille. Các ý tưởng này đã tập hợp lại năm 1987 bằng việc thành lập Hội phát
triển giảng dạy và nghiên cứu về viết công trình khoa học y học (Association pour le developpement de
l'enseignement et de la rechercher en rédaction médical - ADERREM).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Farfor JA. Enseigner la rédaction médicale. Chapitre II. La structure du compte rendu de recherche.
Cah Med 1976;2:783-5.
2. Boileau-Despréaux N. L'art poétique. Chant I. In: (Euvres, nouvelle édition. Paris: Billiot, 1726:7-
33.
3. International Committee of Medical Journal Editors. Uniform requirements for manuscrips
submitted to biomedical journals. N Engl J Med 1997;336:309-15 (traduction fran†aise voire page 149)
4. Department of Clinical Epidemiology and Biostatistics, McMaster University Health of Science.
How to read clinical journals: I. Why to read them and how to start reading them critically. Can Med
Assoc J 1981;124:555-8.
5. Smith R. Steaming up windows and refereeing medical papers. Br Med J 1982;285:1259-61.
6. Garfield E. In thuth, the “flood” of scientific literature is only a myth. Scientist 1991;2:11-25.
7. Angell M, Relman AS. Fraud in biomedical research. A time for congressional restraint. N Engl J
Med 1988;318:1462-3.
8. Stossel TP. Volume: papers and academic promotion. Ann Intern Med 1987;106:146-8.
9. Stetten D. Publication: numbers and quality. Science 1986;232:4746.
10. Farfor JA. Pour une réhabilitation de la presse médicale fran†aise: à quand la fin de
l'amateurisme? Cah Med 1977;3:683-7.
11. DeBakey L. The scientific journal: editorial policies and pratices: guidelines for editors, reviewers,
and subauthors. In collaboration with PF Cranefield et al. St Louis: Mosby, 1976,129p.
12. Woodford FP. Training professional editors for scientific journals. Scholarly Publishing 1970;2:41-
6.
13. Roland CG, Cox BG. A mandatory course in scientific writing for undergraduate medical students.
J Med Educ 1976;51:89-93.
14. Cox BG. The author's editor. Mayo Clin Proc 1974;49:314-7.
15. Lock S. Introduction (à l'enseignement de la rédaction médicale). Cah Med 1976;2:630-2.
16. Revillard JP. Pour un enseignement de l'expession médicale et scientifique. La rédaction d'un
article. Lyon Médical 1970;224:1-9.
17. Farfor JA. Pourquoi la recherche médicale fran†aise est-elle sous-estimatée dans les pays de langue
anglaise? Cah Med Lyonnais 1975;51:11-4.
18. Huguier M, Poitout D. Diplôme d' études approfondies en sciences chirurgicales. Ann Chir
1986;40:449-53
Chương 2
CÁC DạNG BÀI VIếT VÀ BÀI BÁO TRONG Y HọC
Sự đa dạng của các bài viết và bài báo trong y học là để đáp ứng với sự đa dạng về mục đích của chúng.
Các tạp chí y học cho phép các tác giả trình bày theo ít nhất tám cách khác nhau, mỗi cách tương ứng
với một dạng bài báo đã được xác định. Hệ quả là việc xếp loại các bài báo trong y học thành các dạng
khác nhau mang lại cho người đọc thông tin về mục đích chung của bài báo, như vậy hướng người đọc
chọn lựa ngay từ đầu.
Các dạng bài viết và bài báo khác nhau trong y học:
Bài đăng công trình nghiên cứu (article original)
Bài xã luận (editorial)
Thông báo lâm sàng (cas clinique ou fait clinique)
Thư gửi Ban biên tập ( lettre à la rédation)
Tổng quan (revue generale)
Hiệu chỉnh (mise au point)
Phân tích bình luận (analyse commentée)
Bài giảng (article didactique)
Sách (livres)
Luận án bác sỹ y học, khi trình bày một công trình nghiên cứu phải được viết như một bài báo khoa học,
nghĩa là như một bài đăng công trình nghiên cứu.
Mỗi dạng bài báo có điểm đặc trưng riêng. Việc không tuân thủ những đặc điểm này thể hiện sự thiếu
nghiêm túc của người viết.
BÀI ĐĂNG CÔNG TÌNH NGHIÊN CỨU
Đây là bài báo nguyên thuỷ còn gọi là khoá luận hay báo cáo khoa học ở một số tạp chí, trình bày một
công trình nghiên cứu theo một chủ đề nào đó. Các tác giả trình bày phương pháp nghiên cứu, đưa ra các
kết quả nghiên cứu của mình và bàn luận về các kết quả đó.
Cấu trúc một bài báo nghiên cứu là sự lặp lại một cách máy móc vì nó là kết quả của logic khoa học.
Phần Đặt vấn đề phải nói rõ tại sao công trình được thực hiện. Phần Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
phải chỉ ra công trình được thực hiện thế nào. Phần kết quả mô tả những gì đã nhận thấy và chỉ những gì
đã nhận thấy. Ngược lại phần Bàn luận hay bình luận có thể viết tự do hơn, mặc dù vẫn phải tôn trọng
những nguyên tắc chung. Tài liệu tham khảo giúp để chứng minh những điều các tác giả khẳng định,
chủ yếu ở phần đặt vấn đề và phần bàn luận. Cấu trúc này phù hợp với một logic chứ không phải với
một sự giáo điều áp đặt. Bài báo nghiên cứu cũng khác với bài giảng ở chỗ mục đích của bài giảng là
giảng dạy cho người đọc. Việc nhầm lẫn giữa các thể loại thể hiện sự thiếu chặt chẽ trong việc viết bài
báo. Cấu trúc một bài báo nghiên cứu thường được gọi là IMRAD (1). Nó có nghĩa là: I = Introduction =
Đặt vấn đề, M = Matériel et méthodes = Tư liệu và phương pháp, R = Résultats = Kết quả, A = and = và,
D = Discussion = Bàn luận.
Cấu trúc một bài báo nghiên cứu (gọi là cấu trúc IMRAD)
Tên bài báo và tóm tắt
I = Introduction = Đặt vấn đề,
M = Matériel et méthode = Tư liệu và phương pháp,
R = Résultat = Kết quả,
A = and = và,
D = Discussion = Bàn luận.
Tài liệu tham khảo
Hai sai lầm lớn nhất và thường gặp nhất là: thứ nhất là đặt trong một chương những vấn đề không có vị
trí ở đó như đưa nhận xét vào chương Tư liệu và phương pháp nghiên cứu hay chương Kết quả, mô tả
đối tượng nghiên cứu trong chương Kết quả... Sai lầm thứ hai là biến một phần hay toàn bộ chương Bàn
luận thành một bài giảng sư phạm (2).
BÀI XÃ LUẬN
Bài xã luận thường được Ban biên tập của một tạp chí yêu cầu một tác giả có uy tín trong lĩnh vực
chuyên môn đó viết. Tác giả tự do bày tỏ quan điểm, phân tích các công trình nghiên cứu đã xuất bản,
đưa ra các giả thuyết hoặc đề xuất những nghiên cứu mới. Vì lý do đó, tác giả của bài xã luận khi viết
không phải tuân theo cấu trúc IMRAD. Định nghĩa về bài xã luận cho thấy nó chỉ do một tác giả viết.
Một bài xã luận phải ngắn vào khoảng 6 trang đánh máy. Trong một bài xã luận nên tránh đưa ra các kết
quả nghiên cứu cụ thể. Tác giả cần giữ một thái độ phê phán đối với các kết quả nghiên cứu của riêng
mình. Bài xã luận là một dạng bài báo y học rất cụ thể: Các kết quả thống kê cho thấy đó là loại bài
được đọc nhiều nhất trong các tạp chí y học nổi tiếng (3). Trên thực tế với tư cách là người đọc, cách rất
tốt để tạo ra quan điểm về một vấn đề là đọc bài xã luận về vấn đề đó. Một bài xã luận có thể có cùng
chủ đề với bài nghiên cứu trong cùng một số của tạp chí, đó là dạng bài xã luận "chủ đề" .
THÔNG BÁO LÂM SÀNG
Thông báo lâm sàng có mục đích trình bày một bệnh án và bình luận ngắn về bệnh án đó. Vì lý do đó độ
dài bản thảo không nên vượt quá 4-6 trang đánh máy. Thông báo lâm sàng phải đưa ra các thông tin độc
đáo về sinh bệnh học, lợi ích của quá trình chẩn đoán hay điều trị một bệnh lý nào đó. Các tạp chí nổi
tiếng có một chính sách rất chặt chẽ trong việc đăng các thông báo lâm sàng. Chính sách này là do có rất
nhiều thông báo lâm sàng được gửi tới. Không phải bao giờ cho đăng những trường hợp hiếm gặp cũng
có ích, thường vì đó là những trường hợp không có lợi ích rõ ràng về tính sư phạm (4). Việc viết một
thông báo lâm sàng nên tránh hai xu hướng: Từ một trường hợp đã gặp làm một điểm báo y học hay viết
một bài giảng dưới vỏ bình luận một bệnh án.
Thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng gần với dạng thông báo lâm sàng (5). Việc này được thực hiện bởi
một hay nhiều bác sĩ thảo luận những vấn đề về chẩn đoán hay điều trị đặt ra nhân một trường hợp bệnh
nhân. Thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng là một bài báo có tính giảng dạy mà một minh họa là mục
"Bệnh án lâm sàng" hay “Thảo luận lâm sàng - giải phẫu bệnh” của Bệnh viện Trung tâm Masachussets
được đăng hàng tuần trong tạp chí New England Journal of Medicine (6). Tại Pháp, có những tạp chí
đăng thường kỳ những bài thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng.
Thảo luận lâm sàng giống như thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng, trình bày những vấn đề về chẩn đoán
và điều trị của một bệnh án lâm sàng. Khác với thảo luận giải phẫu bệnh-lâm sàng mà mỗi phần được
thảo luận bởi một chuyên gia khác nhau (5), thảo luận lâm sàng là một dạng bài báo giảng dạy, cập nhập
một vấn đề qua một bệnh án cụ thể được trình bày. Dạng thảo luận lâm sàng được đăng thường kỳ trong
tạp chí Annals of Internal Medicine.
Đôi khi có người chỉ trích dạng thông báo lâm sàng (6,7). Tuy nhiên khi nó có chất lượng tốt thì lại
mang lại rất nhiều kết quả bởi vì 56% độc giả của tạp chí New England Journal of Medicine nói rằng họ
đọc ít nhất ba lần một tháng mục "Bệnh án lâm sàng" trong báo này (8). Vì vậy Ban biên tập các tạp chí
y học nên khuyến khích đăng dạng bài này với điều kiện phải kiểm soát chất lượng (4).
THƯ GỬI BAN BIÊN TẬP
Thư gửi Ban biên tập là một bức thư gửi cho Ban biên tập của một tạp chí với mục đích được đăng trên
tạp chí đó. Nội dung của thư gửi Ban biên tập có thể là một thông báo lâm sàng ngắn hoặc các kết quả
bước đầu một công trình nghiên cứu hay có thể là lời bình luận về một bài báo đã đăng trước đó trong
chính tạp chí đó. Thư gửi ban biên tập phải ngắn, ít hơn hai trang đánh máy và có dưới sáu tài liệu tham
khảo.
Các kết quả trình bày trong thư gửi Ban biên tập có thể sẽ được đăng sau này một cách chi tiết hơn. Thư
gửi Ban biên tập cho phép các tác giả tính ngày công bố nếu công trình không đăng hay chỉ được thảo
luận miệng. Lợi điểm của thư gửi ban biên tập là nó được đăng nhanh sau khi được Ban biên tập chấp
nhận, thường chỉ trong vòng vài tuần, trong khi muốn đăng một công trình nghiên cứu thì thời gian chờ
đợi là vài tháng thậm chí một năm hoặc hơn.
Thư gửi Ban biên tập có thể là lời trả lời, một bình luận hay có thể là một quan điểm ngược lại với một
bài báo đã đăng trước đó trong cùng tạp chí (9). Khả năng trao đổi này giữa các tác giả và người đọc là
một thói quen rất được ưa chuộng ở các tạp chí Anh-Mỹ (9) đã phát triển trong các tạp chí tiếng Pháp.
Có những tạp chí chỉ chấp nhận loại thư gửi Ban biên tập kiểu này mà thôi.
TỔNG QUAN
Bài tổng quan là một bài điểm lại một cách đầy đủ nhất có thể được những hiểu biết về một chủ đề xuất
phát từ việc phân tích toàn bộ mọi mặt các công trình đã đăng. Trong phần tài liệu tham khảo có thể dẫn
hàng vài trăm tài liệu. Một bài tổng quan tốt phải đáp ứng được những yêu cầu sau (10): 1) chỉ hướng tới
một chủ đề cụ thể đã được trình bày rõ ở phần mở đầu. 2) trình bày những nguồn tài liệu đã được sử
dụng để thu thập thông tin và chỉ rõ những tiêu chuẩn nào để sử dụng tài liệu trong số những tài liệu đã
đọc, ví dụ như tác giả một bài tổng quan về điều trị một bệnh chỉ lấy những nghiên cứu tiền cứu có kiểm
chứng. 3) phân tích phương pháp luận và giá trị của các kết quả thu được trong các công trình khác nhau
được sử dụng trong bài. 4) trình bày tóm tắt trong những đoạn cuối của bài tổng quan những số liệu và
kết quả có giá trị nhất và gợi ý những hướng nghiên cứu cho các công trình trong tương lai. Người đọc
nhờ vậy nhận được một cái nhìn tổng thể bao quát về một vấn đề cả về mặt lịch sử và triển vọng mở ra
từ đó.
HIỆU CHỈNH
Hiệu chỉnh là một thể loại nằm giữa hai thể loại có tính hoàn chỉnh hơn là bài xã luận và bài tổng quan.
Người viết bài này phải là tác giả của những công trình chủ yếu trong vấn đề đó. Bài này cũng giống
như bài xã luận thường được viết theo yêu cầu của Ban biên tập một tạp chí.
Bài hiệu chỉnh có nội dung tập trung vào một chủ đề hạn hẹp xuất phát từ những bài báo đăng trong
những năm gần đây và từ kinh nghiệm bản thân của tác giả. Sự khác biệt giữa hai nguồn thông tin này
phải thể hiện rõ ràng. Ngay từ phần đặt vấn đề, các tác giả phải giải thích bài hiệu chỉnh được viết bởi lý
do gì. Trong phần nội dung chính của bài báo phải tránh việc chỉ đơn giản sắp xếp các kết quả trái
ngược cạnh nhau mà phải đưa ra sự giải thích các điều trái ngược, quan điểm cá nhân của tác giả, đưa ra
gợi ý giải quyết những điểm bất đồng để cho phép người đọc có thể tự sàng lọc những quan niệm của họ
về chủ đề đó. Tài liệu tham khảo nên chọn lọc và chỉ giới hạn ở vài chục tài liệu.
BÀI ĐIỂN HÌNH
Bài điểm bình có nội dung là phân tích và bình luận về những bài báo xuất hiện trong những tháng gần
đây trong những tạp chí khác. Tốt nhất là bài này do một tác giả hiểu biết sâu về chủ đề đó viết. Bài
dạng này chỉ nên có 2-3 trang đánh máy và bao gồm hai phần: Phần đầu tóm tắt bài báo với sự tham
khảo phần tóm tắt của các tác giả, phần thứ hai là phần bình luận và phê phán về giá trị của các kết quả
và những điều mà kết quả đó mang lại cho sự hiểu biết về chủ đề. Sự xuất hiện của phần bình luận bộc
lộ nhân thân tác giả. Một vài tài liệu tham khảo, thường là khác với những tài liệu được dẫn trong bài
báo được điểm có thể làm nòng cốt cho phần bình luận.
Loại bài này rất được độc giả quan tâm. Có những tạp chí chỉ đăng những bài điểm bình, thậm chí có cả
những cuốn sách xuất bản thường kỳ đăng loạt bài này như cuốn "Year Books".
BÀI GIẢNG
Mục đích của bài giảng là giảng dạy cho người đọc như chính tên của loại bài này chỉ ra. Một bài giảng
đòi hỏi phải chuyên sâu về vấn đề và có khả năng mang lợi ích cho tất cả mọi độc giả muốn tìm hiểu về
chủ đề đó, dù đó là người chưa biết gì hay chỉ biết một phần vấn đề.
Kèm theo bài giảng có phần hướng dẫn đọc sách gọi là phần danh mục tài liệu liên quan dành cho những
ai muốn biết sâu hơn về chủ đề. Danh mục tài liệu khác tài liệu tham khảo. Tuy nhiên một bài giảng,
ngoài danh mục tài liệu liên quan còn có thể có tài liệu tham khảo là những tài liệu làm nòng cốt cho bài
viết và được trích dẫn trong bài.
LUẬN ÁN BÁC SỸ
Luận án bác sỹ thường là dịp đầu tiên sinh viên tiếp xúc với việc viết báo y học. Mục đích của một luận
án phải được xác định một cách cẩn thận trước khi bắt tay vào thực hiện: tra cứu hàng chục hay hàng
trăm tài liệu để rồi sau đó tự hỏi có thể rút ra những cái gì là trái ngược với việc đáng phải làm. Mục
đích của một luận án cũng như tất cả các công trình khoa học là trả lời câu hỏi được đặt ra một cách rõ
ràng. Việc bảo vệ luận án phải là việc trình bày một công trình nghiên cứu cá nhân và những ảnh hưởng
mà công trình đó tạo ra.
Một luận án vì vậy phải được trình bày theo cấu trúc của một công trình nghiên cứu: Đặt vấn đề, Đối
tượng và phương pháp, Kết quả, Bàn luận và Tài liệu tham khảo. Cách thức viết một luận án như vậy
giúp cho sau này dễ dàng đăng công trình trong một tạp chí dưới dạng một bài báo nghiên cứu, đó là
cách duy nhất để thông báo các kết quả của công trình. Trong thực tế, rất nhiều tạp chí y học từ chối
chấp nhận khi đưa một luận án vào phần tài liệu tham khảo một bài báo vì đó là một công trình khó tiếp
cận cho những ai không sống ở thành phố có trường đại học mà luận án đó được bảo vệ và càng khó hơn
cho các người đọc ở nước ngoài khi muốn tham khảo tài liệu đó.
TÀI LIỆU THAM KIHẢO
1. Farfor JA. Enseigner la rédaction médicale. Chapitre II. La structure du compte rendu de recherche.
Cah Med 1976;2:783-5.
2. Huguier M, Molkhou JM. La rédaction médicale. Gastroenterol Clin Biol 1986;10:29-33.
3. Morgan PP. Scientific editorials. A precious and scarce element in medical journals. Can Med Assoc
J 1985;132:315.
4. Amsler R. De l'honnêteté fondamentale des publications médicales. Concours Médical 1971;93:647-
50.
5. Pariente A. Le cas clinique est-il un genre désuet? Ann Gastroenterol Hepatol (Paris) 1987;23:1.
6. Relman AS. Are the case records obsolete? N Engl J Med 1979;301:1112-3.
7. Lipkin M. The CPC as an anachronism. N Engl J Med 1979;301:1113-4.
8. Scully RE. In defence of the CPC. N Engl J Med 1979;301:1114-6.
9. Morgan PP. How to write a letter to editor that the editor will want to publish. Can Med Assoc J
1985;132:1344.
10. Murlow CD. The medical review article: state of the science. Ann Intern Med 1987;106:485-8.
CHƯƠNG 3:
VĂN PHONG
Văn phong tốt nhất cho một bài báo khoa học là không có văn phong (1): Ba yếu tố cơ bản nhất của một
bài báo khoa học là chính xác, rõ ràng và ngắn gọn. Cách viết một bài báo khoa học tự bản thân nó thể
hiện tính chặt chẽ khoa học. Nó khác biệt một cách cơ bản với văn phong trong văn chương.
CÁCH VIẾT TRONG KHOA HỌC KHÁC VỚI CÁCH VIẾT TRONG VĂN CHƯƠNG
Nền văn hoá và việc học ở nhà trường đã ảnh hưởng tới việc viết văn trong khoa học và có lẽ đã có ảnh
hưởng xấu tới việc đó. Trên thực tế việc viết văn trong khoa học y học có những điểm đặc biệt biểu hiện
ở nhiều nguyên tắc: sử dụng tốt thì của động từ, loại bỏ những kiểu diễn đạt hoa mỹ, những biểu hiện có
tính cảm tính, những thể bị động không cần thiết.
Việc sử dụng đúng thì của động từ
Tính logic khoa học đòi hỏi sử dụng thì quá khứ cho tất cả những hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ và
chỉ sử dụng thì hiện tại trong những trường hợp được xác định. Như vậy, trong một bài báo nghiên cứu,
thì quá khứ phải được dùng cho tất cả những gì liên quan tới kinh nghiệm cá nhân của các tác giả bởi vì
những cái đó đã xảy ra trong quá khứ dù chỉ mới vừa xảy ra: cách thức tiến hành nghiên cứu (tư liệu và
phương pháp), những cái nhận được (kết quả). Thì quá khứ cũng phải được dùng cho tất cả những điều
xuất phát từ kinh nghiệm của các tác giả khác, cả ở phần đặt vấn đề cũng như ở phần bàn luận.
Khi viết trong khoa học, việc sử dụng thì hiện tại tường thuật cho những sự kiện xảy ra trong quá khứ
thường dẫn tới sự không logic trong dạng thức: “bệnh nhân đang đến bệnh viện ngày 15 tháng 9 năm
1983” (sử dụng thì động từ thời hiện tại cho một hiện tượng đã xảy ra nhiều năm trước. Một cuộc phẫu
thuật đã được thực hiện. Khi mổ "đang" tìm thấy một khối u (nhận xét như trên) và khối u này đã được
cắt bỏ. Bệnh nhân "sẽ" được xuất viện (động từ ở thì tương lai cho một sự kiện trong quá khứ) ngày thứ
tám sau mổ”.
Hơn nữa, việc sử dụng thì hiện tại để mô tả những hiện tượng trong quá khứ là nguồn gốc của sự phóng