Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Bài báo cáo thực tập thực tế môi trường các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long pdf
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Bài báo cáo th ự c t ập
Thực tế môi
trường các tỉnh
Đồng bằng sông
Cửu Long
1
MỤC LỤC
Bài báo cáo th c t p ự ậ .....................................................................................................................................................1
Th c t môi tr ng các t nh ng b ng sông C u Long ự ế ườ ỉ Đồ ằ ử .........................................................................................1
M C L C Ụ Ụ ................................................................................................................................................................2
PHẦN 1; TỔNG QUAN
Chương 1: Tổng quan về Đồng Bằng sông Cửu Long.
I. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
I.1 Vị trí địa lý
− ĐBSCL (Đồng Bằng Sông Cửu Long) nằm kéo dài từ 8°30’ đến 11°00 vĩ Bắc;
104°35’ đến 107°00 kinh Đông. Nằm ở cực nam của đất nước, là phần cuối cùng của lưu
vực sông Mêkông với tổng diện tích tự nhiên là 3,96 triệu ha bằng 5% diện tích toàn lưu
vực.
− Diện tích đồng bằng là 39.700 km2
, bao gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng
Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu
Giang, Bến Tre, và thành phố Cần Thơ.
I.2 Địa chất
2
Nếu so với đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL có tuổi thành tạo xưa hơn nhiều - ít
nhất cũng cách đây cả hằng triệu năm. Vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích
phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Những hoạt động hỗn
hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu.
I.2.1 Lịch sử hình thành đá móng
− Lịch sử ĐBSCL nằm trọn vẹn trong 2 đại Mezozoic và Kainozoic (trung sinh và
cận sinh) lập nên một móng đá cứng.
− Móng đá trải qua 2 thời kỳ xáo trộn mãnh liệt do hoạt động tách dãn đáy biển
Đông ở ngoài khơi và đới toạt nứt của vịnh Thái Lan.
− Vào thời cận sinh, móng đá bị phủ bởi trầm tích phong phú, mà chiều dày đã được
giải đoán địa chấn, và tam giác châu có chiều dày về phía Đông Nam.
I.2.2 Bồi tích bờ biển
Hệ thống bồi tích bờ biển xảy ra nhờ cân bằng giữa 2 cực độc lập là dòng sông đi
ra và triền biển đi vào mà hậu quả trực tiếp là vật liệu trầm tích lơ lửng (cát mịn, bùn sét)
mưa xuống đáy nước những cồn cửa sông mọc ra, rồi dần dần lấp nghẽn cửa sông.
I.2.3 Bồi tích lòng sông: Lòng sông có 2 loại trầm tích:
− Loại lơ lửng, thường chỉ rơi xuống đáy nước của các trũng yên lặng, hay rơi xuống
đáy biển.
− Loại trượt trên mặt đáy tạo ra cát sông, cồn sông, tiếp tục di chuyền và tạo thành
cù lao sông.
I.2.4 Bồi tích đồng lũ
− Đây là kết quả của nước thượng nguồn trên ĐBSCL, vật liệu của lũ chủ yếu là sét,
sau là bùn mịn.
− Về mặt môi trường trầm tích có 2 loại đồng lũ: đồng lũ kín của tiểu vùng Đồng
Tháp Mười và đồng lũ hở tương ứng với Tứ Giác Long Xuyên.
I.3 Địa hình
− Chủ yếu là do phù sa mới của sông Cửu Long bồi đắp.
3
− Các dạng địa hình: địa hình trũng khó thoát nước (Tứ Giác Long Xuyên, Đồng
Tháp Mười), địa hình cao (Đông Bắc Long An, Bắc Đống Tháp), địa hình trung bình
(Tiền Giang).
− Nhìn chung, ĐBSCL bằng phẳng, sự chênh lệch độ cao không đáng kể (trừ vùng
núi An Giang), tuy nhiên cũng ảnh hưởng rõ đến quá trình hình thành và qui luật phân bố
các loại đất.
I.4 Thỗ nhưỡng
Tùy theo điều kiện phân bố tính chất đất, người ta có thể phân thành các vùng đất chính
như sau:
I.4.1 Vùng đất phèn (S)
− Diện tích đất phèn cả nước là 2.140.306 ha, chiếm 6.45% diện tích tự nhiên của cả
nước. ĐBSCL có 1.885.890 ha, chiếm 88.11% diên tích đất phèn cả nước.
− Đất phèn được hình thành do 2 nguyên nhân: một là do tầng đất phèn tiềm tàng bị
oxi hóa mà thành; hai là do tích tụ ở vùng trũng do nước mưa mang đến.
I.4.2 Vùng đất phù sa nước ngọt (P)
− Cả nước có 2.936.413 ha đất phù sa nước ngọt, chiếm 8.9% đất tự nhiên. Ở
ĐBSCL, diện tích đất phù sa nước ngọt là 960.734 ha. Ở nhiều ở các tỉnh An Giang
(214.662ha), Đồng Tháp (150.853ha).
− Đất phù sa thoát nước: 420.236 ha; đất phù sa ít thoát nước: 535.638 ha.
− Đất phù sa ĐBSCL là loại đất tốt. Đất khá giàu chất hữu cơ và đạm.Rất thích hợp
để trồng lúa, hoa màu, cây ăn quả...Phân bố chủ yếu ở các tỉnh Long An, Bến Tre, Vĩnh
Long, Tiền Giang, Đồng Tháp.....
I.4.3 Vùng đất mặn (M)
− Cả nước là: 991.202 ha. Ở ĐBSCL, diện tích đất mặn 703.452 ha, chiếm 70.96%
diện tích đất mặn của cả nước và được chia thành:
o Đất mặn, sú, đước, vẹt: 170.479 ha.
o Đất mặn nhiều: 255.042 ha.
o Đất mặn ít và trung bình: 277.931 ha.
4
− Đặc trưng của đất mặn là lượng Cl-
cao 0.05-0.25% vào mùa khô, pH ít chua đến
hơi kiềm, hàm lượng mùn từ trung bình đến hơi khá, ít thoát nước. Đất mặn phân bố
nhiều ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau.
I.4.4 Vùng đất phèn mặn (SM)
Đất phèn mặn là loại đất bị nhiễm mặn muối. Đất này thường phân bố ở địa hình
trung bình và tương đối thấp. Đặc biệt tập trung nhiều ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.
I.4.5 Vùng đất giồng cát (Cz)
Là loại đất cát biển tập trung ở ĐBSCL.Thường gặp ở Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Bạc Liêu....
I.4.6 Vùng đất xám trên phù sa cổ (X)
ĐBSCL có 64.705ha, Long An (46.195ha), Đồng Tháp (15.484ha). Phân bố trên
các bậc thềm phù sa cổ, chạy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia như ở Đồng Tháp
Mười. Đây là nhóm đất nghèo dinh dưỡng nhất ở ĐBSCL, hàm lượng chất hữu cơ thấp.
Thích hợp trồng các loại cây công nghiệp, hoa màu, cây họ đậu... Được phân bố theo thứ
tự Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang....
I.4.7 Vùng đất núi (F)
Ở ĐBSCL, khu vực đồi núi tập trung ở An Giang, có diện tích 26.200 ha.Nhìn
chung loại đất này có hàm lượng mùn rất thấp, nghèo dinh dưỡng.
I.5 Thủy văn
Mọi hiện tượng thủy văn và các đặc trưng tài nguyên nước mặt ĐBSCL là hậu quả
của chế độ mưa mùa tập trưng trên toàn bộ lưu vực sông Cửu Long và mối tương tác giữa
các quá trình sông và quá trình biển.
Hai quá trình chuyển động và ngược chiều này giao thoa, phối hợp và khống chế
lẫn nhau. Mối tương tác này còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống thủy văn và các kiến trúc
nhân tạo khiến chế độ thủy văn ĐBSCL mang một sắc thái đặc biệt và biến động không
ngừng.
I.5.1 Yếu tố chủ đạo của quá trình sông
Lưu lượng trên dòng chính: chủ yếu là do 2 sông Tiền và sông Hậu. Sự phân bố
của 2 sông này trong năm là không đều, tùy thuộc lượng nước ở Tân Châu, Châu Đốc do
5
sự điều tiết của biển Hồ từ Campuchia bắt nguồn mang đến. Nước sông thường lên cao từ
tháng 7 đến tháng 11, cao nhất là vào tháng 9 và 10, mực nước có thể chênh lệch so với
mùa cạn đến 4 m.
I.5.2 Yếu tố chủ đạo của quá trình biển
− Triều biển Đông thuộc loại bán nhật triều không đều, biên độ từ 2m - 3.5m. Cực
đại có thể lên đến 4m.
− Ngược lại triều biển Tây thuộc loại triều hỗn hợp thiên về nhật triều có biên độ
triều nhỏ (nhỏ hơn 1m).
− Dạng bán nhật triều và dao động mạnh của biển Đông có tác dụng lớn trong việc
đẩy nước, tích nước trong lúc triều cao, trong khi ấy dạng nhật triều yếu của biển Tây có
lợi cho việc tiêu nước. Các sông chính rộng và sâu đều chảy ra biển Đông, đó là lý do
khiến triều biển Đông tác dụng lên phần lớn diện tích ĐBSCL
− Do những tác động khác nhau về lưu lượng của sông, địa hình dòng sông, hình
thái và mạng lưới kênh rạch....nên khi truyền vào nội địa qua các sông chính thì hình
dạng, biên độ và tốc độ truyền triều trên mỗi sông khác nhau và thay đổi trên từng đoạn
sông. Do đó, diện tích có khả năng tự chảy trên 9 tháng/năm chỉ giới hạn ở vùng ven và
giữa sông Tiền, sông Hậu. Các khu vực khác muốn đưa nước lên vườn, ruộng trong mùa
kiệt phải sử dụng động lực vào các thời điểm khác nhau.
− Mực nước bình quân ở biển Đông cao hơn biển Tây nên sự chuyển nước từ Đông
sang Tây là hợp quy luật.
− Biên độ giảm khi đi sâu vào vườn ruộng.
− Tốc độ truyền triều trên các sông khá lớn, biến đổi theo mùa, lớn nhất là trên sông
Tiền (trung bình: 20km/g, có đoạn 40km/g) và giảm nhanh khi triều truyền vào vườn,
ruộng.
− Hậu quả là tuy cùng nguồn triều, các điểm khác nhau trên các dòng chính và nội
đồng có thể khác pha do triều truyền theo nhiều đường khác nhau.
I.5.3 Chế độ thủy văn mùa kiệt và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
− Trong mùa cạn, toàn bộ sông rạch ở ĐBSCL chịu tác dụng của thủy văn và hầu
như không có kênh chính nào chảy một chiều trong mùa cạn, những kênh nào lợi dụng
được các quy luật truyền triều và ít bị nhiễu động bởi các kênh ngang đều có chế độ tải
nước tốt trong mùa cạn.
− Ngoài nguồn của sông Tiền vào mùa nắng, cần lưu ý khai thác nước của các
nguồn từ sông rạch Campuchia đổ về.
6