Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo luật hình sự Việt Nam
PREMIUM
Số trang
126
Kích thước
30.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1060

Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo luật hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN VĂN QUỚI

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƢỚI MỨC THẤP NHẤT

CỦA KHUNG HÌNH PHẠT ĐƢỢC ÁP DỤNG

THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƢỚI MỨC THẤP NHẤT

CỦA KHUNG HÌNH PHẠT ĐƢỢC ÁP DỤNG

THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Định hƣớng ứng dụng

Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Tƣờng Vy

Học viên: Trần Văn Quới

Lớp: Cao học Luật, An Giang – Khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất

của khung hình phạt được áp dụng theo Luật hình sự Việt Nam” là công trình

nghiên cứu khoa học do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của

TS. Lê Tƣờng Vy. Các nội dung, thông tin được trình bày trong luận văn là

chính xác và trung thực.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2021

Tác giả

Trần Văn Quới

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ Luật Hình sự

CTKGG : Cải tạo không giam giữ

HĐTP : Hội đồng Thẩm phán

HSPT : Hình sự phúc thẩm

HSST : Hình sự sơ thẩm

TAND : Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

TNHS : Trách nhiệm hình sự

TP : Thành phố

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1

CHƢƠNG 1. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƢỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA

KHUNG HÌNH PHẠT ĐƢỢC ÁP DỤNG THEO QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 2

ĐIỀU 54 BLHS NĂM 2015.......................................................................................6

1.1. Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt dƣới mức thấp nhất

của khung hình phạt đƣợc áp dụng theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015..6

1.2. Thực trạng áp dụng quy định quyết định hình phạt dƣới mức thấp nhất

của khung hình phạt theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 ..........................8

1.2.1. Điều kiện để người phạm tội được áp dụng quy định tại khoản 2 Điều

54 BLHS ........................................................................................................................8

1.2.2. Giới hạn quyết định hình phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS....

......................................................................................................................................17

1.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp

nhất của khung hình phạt được áp dụng theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015

..............................................................................................................................21

Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................24

CHƯƠNG 2. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƯỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA

KHUNG HÌNH PHẠT ĐƯỢC ÁP DỤNG THEO QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 3

ĐIỀU 54 BLHS NĂM 2015....................................................................................25

2.1. Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt dƣới mức thấp nhất

của khung hình phạt đƣợc áp dụng theo khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015....

..............................................................................................................................25

2.2. Thực trạng áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất

của khung hình phạt được áp dụng theo khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015....27

2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp

nhất của khung hình phạt được áp dụng theo khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015

..............................................................................................................................39

Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................43

KẾT LUẬN..............................................................................................................44

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Khi xây dựng chế tài của các tội phạm cụ thể trong Phần Các tội phạm, nhà

làm luật đã dự liệu một khung hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được thực hiện. Tuy nhiên, trong nhiều

trường hợp, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc là người phạm tội lần

đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể, nếu

Tòa án tuyên cho họ một hình phạt ở mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều

luật đã quy định thì hình phạt đó vẫn còn quá nghiêm khắc, không tương xứng với

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện.

Trong trường hợp này, Điều 54 BLHS năm 2015 cho phép Tòa án được quyết định

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Quyết định hình

phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng quy định tại Điều 54

BLHS là một trong các trường hợp quyết định hình phạt giảm nhẹ đặc biệt. Quy

định này có ý nghĩa quan trọng trong việc cá thể hóa hình phạt đối với người phạm

tội, đảm bảo hình phạt áp dụng đối với người phạm tội tương xứng với tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện. Tuy nhiên, thực

tiễn áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt được áp dụng cho thấy quy định này vẫn chưa thực sự phát huy được hết vai

trò và ý nghĩa của mình. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong

đó, có những bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật hình sự cũng như

trong thực tiễn áp dụng pháp luật như sau:

Thứ nhất, quy định tại Điều 54 BLHS vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như:

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “người giúp sức trong vụ án

đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” nên việc xác định điều kiện này trên

thực tế chưa có sự thống nhất; quy định “không bắt buộc phải trong khung hình

phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật” trong trường hợp Tòa án có thể quyết định một

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt

buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn tại khoản 2 Điều 54 BLHS chưa có

cách hiểu thống nhất; khi quyết định lựa chọn phương án chuyển sang một hình

phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo khoản 3 Điều 54 BLHS thì Tòa án phải chuyển

sang loại hình phạt nhẹ hơn liền kề hay chỉ cần nhẹ hơn mà không cần phải liền kề

cũng như việc quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn liệu

2

có bị hạn chế bởi điều kiện áp dụng của loại hình phạt đó hay không; trong trường

hợp khung hình phạt duy nhất hoặc khung hình phạt nhẹ nhất được áp dụng đối với

người phạm tội có quy định chế tài lựa chọn, trong đó có quy định hình phạt cảnh

cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thì Tòa án có cần áp dụng khoản 3 Điều

54 BLHS để chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn nữa không, và nếu có thì

chuyển qua loại hình phạt nào…

Thứ hai, về thực tiễn áp dụng pháp luật, do quy định tại Điều 54 BLHS vẫn

còn có những hạn chế nhất định cho nên trong một số trường hợp, Tòa án áp dụng

chưa thống nhất và chính xác căn cứ quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của

khung hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội cũng như áp dụng giới hạn

quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang

hình phạt khác chưa đúng, dẫn đến tình trạng hình phạt áp dụng đối với người phạm

tội chưa thật sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội đã thực hiện, chưa đảm bảo được mục đích của hình phạt cũng như mục

đích mà Nhà nước đặt ra khi quy định Điều 54 trong BLHS.

Để khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong quy định và áp dụng pháp luật

về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và

góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề này thì

việc nghiên cứu để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện là điều cần thiết. Vì vậy, tác

giả chọn vấn đề “Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

được áp dụng theo Luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học

Luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Qua khảo sát, tìm hiểu có các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của

tác giả như sau:

1) Dưới góc độ các giáo trình, sách chuyên khảo: Trường Đại học Luật Hà Nội

(2011), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 1, NXB Công an nhân dân; Trường

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần

chung, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; Phạm Văn Beo (2010), Luật hình

sự Việt Nam - Phần chung (Quyển 1), NXB Chính trị Quốc gia; PGS.TS. Nguyễn Thị

Phương Hoa – TS. Phan Anh Tuấn – Đồng chủ biên (2017), Bình luận khoa học những

điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Hồng Đức; …

Trong nội dung của các giáo trình, sách chuyên khảo này đã phân tích và

đánh giá các quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

3

phạt được áp dụng theo quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999 cũng như quy định

tại Điều 54 BLHS năm 2015.

2) Dưới góc độ các Luận văn Thạc sỹ: Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyết

định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”

của tác giả Lê Xuân Lục, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; Luận

văn thạc sỹ Luật học “Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS trong Luật

hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng” của tác

giả Vũ Ngọc Sinh, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.

Trong các luận văn này, tác giả đã phân tích được các vấn đề lý luận chung

về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

như khái niệm, ý nghĩa, nguyên tắc quyết định hình phạt, khái quát lịch sử quy

định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất

của khung hình phạt, phân tích quy định của pháp luật hình sự một số nước trên

thế giới về vấn đề này. Đồng thời, các tác giả cũng phân tích thực tiễn áp dụng

quy định của pháp luật, trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện và các giải pháp

nâng cao khác.

3) Dưới góc độ các bài viết, bài báo: Dương Tuyết Miên (2020), “Một số ý

kiến về Điều 54 BLHS năm 2015 – Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của

khung hình phạt được áp dụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2020; Mai Thị

Thủy (2015), “Một số vấn đề về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS”,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2015; Lê Đăng Doanh (2003), “Quyết định

hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2003; Ban

biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân (2004), “Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định

của BLHS – Điều 47 BLHS năm 1999”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2004; Bùi

Văn Đàm (2020), “Cần áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 để quyết định

hình phạt đối với Chu Văn H”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2020; Trần Linh

(2003), “Những vấn đề khi vận dụng Điều 47 BLHS năm 1999 trong công tác xét

xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2003…Trong nội dung của các bài viết này đã

phân tích quy định của BLHS về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của

khung hình phạt được áp dụng; trên cơ sở đó, các bài viết cũng đã phân tích, nêu ra

các hạn chế còn tồn tại và đưa ra kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về vấn đề này.

Như vậy, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được

áp dụng không còn là vấn đề quá mới mẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy

4

nhiên, trong công trình nghiên cứu của tác giả, tác giả đi sâu vào phân tích những

hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật

thông qua các bản án xét xử của Tòa án; trên cơ sở đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện

quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này, cho nên đây cũng là định hướng

nghiên cứu mới trong Luận văn của tác giả.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua quy định của BLHS cũng như

các bản án thực tế để phân tích những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong lý luận

và thực tiễn áp dụng quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015. Trên cơ sở đó, đưa ra

các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề này.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ:

- Phân tích các quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của

khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 54 BLHS.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về quyết định

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng; nêu ra những

vướng mắc, bất cập còn tồn tại trên thực tế và nguyên nhân của hạn chế.

- Đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

vấn đề nghiên cứu.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 54

BLHS năm 2015 về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

được áp dụng và thực tiễn áp dụng.

Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định về quyết định hình

phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản

2 và khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015. Để làm sáng tỏ phạm vi nghiên cứu, tác giả

nghiên cứu một số bản án điển hình của một số Tòa án về các vấn đề quyết định

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thu thập, phân tích và

xử lý thông tin gồm:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong Luận

văn để nhận thức từ chi tiết đến khái quát vấn đề được nghiên cứu; phân tích các nội

dung cần nghiên cứu và nhận thức một cách khái quát các nội dung nghiên cứu,

khái quát kết quả nghiên cứu của luận văn.

5

- Phương pháp nghiên cứu án điển hình được sử dụng để phân tích các vấn đề

thực tiễn khi áp dụng quy định của BLHS về quyết định hình phạt dưới mức thấp

nhất của khung hình phạt được áp dụng trong một số vụ án cụ thể.

- Phương pháp so sánh được sử dụng để thấy được sự tương đồng và khác biệt

trong quyết định về cùng một vấn đề của các Tòa án cũng như các quan điểm khác

nhau về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Mặc dù luận văn còn có những hạn chế, thiếu sót nhất định nhưng những kết

quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một trong các nguồn tài liệu tham khảo cho giảng

viên, sinh viên chuyên ngành luật và những người có quan tâm về vấn đề quyết định

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng trong luật hình sự

Việt Nam.

Trong hoạt động thực tiễn, đề tài có thể góp một phần nhỏ vào việc nâng cao

nhận thức của những người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử khi quyết định

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Trong hoạt động lập pháp, nếu những kiến nghị được nêu ra trong Luận văn

được tham khảo trong hoạt động lập pháp thì tác giả hi vọng có thể sẽ góp phần nhỏ

vào việc hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình

phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

gồm hai chương:

Chƣơng 1. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015.

Chƣơng 2. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

được áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015.

6

CHƢƠNG 1

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT DƢỚI MỨC THẤP NHẤT CỦA

KHUNG HÌNH PHẠT ĐƢỢC ÁP DỤNG THEO QUY ĐỊNH

TẠI KHOẢN 2 ĐIỀU 54 BLHS NĂM 2015

1.1. Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt dƣới mức thấp nhất

của khung hình phạt đƣợc áp dụng theo khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015

Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tòa án có thể quyết định

một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng

không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với

người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai

trò không đáng kể”.

 Điều kiện để ngƣời phạm tội đƣợc áp dụng quy định tại khoản 2 Điều

54 BLHS.

Khoản 2 Điều 54 BLHS quy định người phạm tội có thể được quyết định

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng khi thỏa mãn đầy

đủ các điều kiện sau:

1) Khoản 2 Điều 54 BLHS được áp dụng đối với trường hợp điều luật có từ

hai khung hình phạt trở lên và khung hình phạt được áp dụng không phải là khung

hình phạt nhẹ nhất của điều luật.

2) Người phạm tội phải là phạm tội lần đầu. Theo giải thích tại Mục 4 Công

văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của TAND tối cao ngày 7/4/2017 giải đáp một số

vấn đề nghiệp vụ thì: “Phạm tội lần đầu được hiểu là từ trước đến nay chưa phạm

tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc

chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa bị kết án, chưa hết

thời hiệu truy cứu TNHS nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau, thì

không được coi là phạm tội lần đầu”.

3) Người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm. Theo khoản 3

Điều 17 BLHS thì có bốn loại người đồng phạm, gồm: Người tổ chức, người thực

hành, người xúi giục và người giúp sức. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh

thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong đó, giúp sức về vật chất là

hành vi cung cấp công cụ, phương tiện, kĩ thuật, khắc phục những trở ngại để người

thực hành thực hiện tội phạm được thuận lợi, dễ dàng hơn. Còn giúp sức về tinh

thần là tạo điều kiện về tinh thần cho việc thực hiện tội phạm như góp ý kiến, chỉ

7

dẫn cách thức thực hiện tội phạm, cung cấp tình hình, hứa hẹn trước sẽ che giấu

người phạm tội, tang vật, dấu vết tội phạm…1

4) Người phạm tội có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm. So với

hành vi của người tổ chức, người thực hành và người xúi giục thì hành vi của người

giúp sức có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội hạn chế hơn vì hành vi giúp

sức không đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện tội phạm mà chỉ đóng vai trò

tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn cho việc thực hiện tội phạm. Người phạm tội

phải là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng “có vai trò không đáng kể”.

Tuy nhiên, thế nào là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò

không đáng kể thì hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên việc xác định

điều kiện “có vai trò không đáng kể” này chỉ mang tính đánh giá tương đối của Hội

đồng xét xử.

Như vậy, theo khoản 2 Điều 54 BLHS thì điều kiện để người phạm tội có thể

được áp dụng quy định này chủ yếu là dựa vào đặc điểm về nhân thân “phạm tội

lần đầu” và dựa vào vai trò của người phạm tội “là người giúp sức trong vụ án

đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”.

 Giới hạn quyết định hình phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 54

BLHS.

Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tòa án có thể quyết định một

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt

buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật…”. Khoản 2 Điều 54

BLHS quy định mức hình phạt tối đa và tối thiểu được áp dụng đối với người phạm

tội như sau:

- Về mức hình phạt tối đa, khoản 2 Điều 54 BLHS quy định Tòa án có thể

quyết định một hình phạt: “Dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp

dụng”. Ví dụ, A phạm tội theo quy định tại khoản 4 Điều 168 BLHS năm 2015.

Khoản 4 Điều 168 BLHS quy định khung hình phạt: “…thì bị phạt tù từ 18 năm đến

20 năm hoặc tù chung thân” thì mức hình phạt tối đa mà Tòa án được áp dụng đối

với A nếu áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS là dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt được quy định tại khoản 4 Điều 168, tức là dưới 18 năm tù.

- Về mức hình phạt tối thiểu, khoản 2 Điều 54 BLHS quy định: “không bắt

buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”.

1 Trường Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần Chung (Tái bản lần thứ

nhất, có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.217.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!