Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ THÀNH LƯỢNG
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ THÀNH LƯỢNG
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự & Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Mai Hồng Quỳ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập
của bản thân với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn. Những thông tin, dữ
liệu đưa ra trong luận văn được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn gốc đảm
bảo tính khách quan trung thực.
Tác giả
Lê Thành Lượng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI
THẨM NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM.................................................................................................................. 6
1.1. Mục đích, ý nghĩa tham gia của việc Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động tố tụng dân sự.......................................................................................... 6
1.1.1. Mục đích....................................................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa ......................................................................................... 9
1.2. Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành............................................................................ 10
1.2.1. Quyền của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành ................................................................................................. 10
1.2.2. Nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành .......................................................................................... 21
1.3. Mối tương quan giữa Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán, Kiểm
sát viên trong tố tụng dân sự.......................................................................... 27
1.3.1. Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán............................................ 27
1.3.2. Hội thẩm nhân dân với Kiểm sát viên ......................................... 30
1.4. Chế định Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự của một số quốc
gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................... 32
1.4.1. Tố tụng dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.......................... 33
1.4.2. Tố tụng dân sự Liên bang Nga.................................................... 34
1.4.3. Tố tụng dân sự Hoa Kỳ............................................................... 35
Kết luận chương 1 .................................................................................. 40
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ ............... 41
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của Hội thẩm nhân dân
trong xét xử vụ án dân sự............................................................................... 41
2.1.1. Quyền đề nghị Chánh án, Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền ...................................... 41
2.1.2. Quyền thảo luận, đưa ra ý kiến, quyết định các vấn đề về tố tụng,
nội dung vụ án, quyền bảo lưu ý kiến khi nghị án ............................................. 51
2.1.3. Quyền được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết
công tác xét xử của Tòa án............................................................................... 57
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân
trong xét xử vụ án dân sự .............................................................................. 58
2.2.1. Nghĩa vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia xét xử .................. 58
2.2.2. Nghĩa vụ tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân,
tham gia tuyên truyền pháp luật. ..................................................................... 74
2.2.3. Nghĩa vụ phải độc lập, vô tư, khách quan trong xét xử ............... 76
Kết luận chương 2 .................................................................................. 78
KẾT LUẬN............................................................................................. 79
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia là một trong những nguyên tắc
cơ bản của trình tự, thủ tục tố tụng Tòa án tại Việt Nam, trong đó có tố tụng
dân sự. Khi tham gia xét xử, Hội thẩm và Thẩm phán ngang quyền nhau trong
việc thảo luận, ra các quyết định tố tụng, tham gia hỏi các đương sự, đánh giá
chứng cứ, nghị án, ra bản án, quyết định thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét
xử. Chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia thể hiện bản chất dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước ta. Hoạt động tiến hành tố
tụng của Hội thẩm nhân dân đã thể hiện được ý chí, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân trong hoạt động xét xử, nói lên tiếng nói của quần chúng và
đưa ra nhận định, quyết định kết quả giải quyết vụ án một cách dân chủ,
khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
Chế định Hội thẩm nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành,
Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, nay là Luật tổ chức Tòa án nhân
dân sửa đổi năm 2014, quy định địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân, bao
gồm các quy định mang tính nguyên tắc, quyền, nghĩa vụ của Hội thẩm nhân
dân khi tiến hành tố tụng; tiêu chuẩn, quy trình tuyển chọn, miễn nhiệm, quản
lý, chế độ bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử và các chế độ khác… Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân
dân trong pháp luật tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân, do quy định của pháp
luật chưa đầy đủ, thiếu cụ thể, rõ ràng, thậm chí còn mang tính hình thức. Từ
đó, làm cho chế định Hội thẩm nhân dân chưa phát huy hết vai trò, ý nghĩa
trong tố tụng dân sự; hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn hạn chế.
Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy quy định của pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần
hoàn thành nhiệm vụ chung của Bộ luật tố tụng dân sự. Giải quyết công bằng,
đúng pháp luật các tranh chấp phát sinh trong nhân dân, bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, khôi phục lại tình trạng bình thường
của các quan hệ dân sự, lao động, kinh doanh thương mại bị vi phạm. Tuy
nhiên, trong thực tiễn áp dụng củng cho thấy quy định của Pháp Luật về Hội
thẩm nhân dân chưa đảm bảo để phát huy đầy đủ hiệu quả, chất lượng hoạt
2
động của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự. Tỷ lệ án dân sự bị hủy, sửa
những năm gần dây có chiều hướng giảm nhưng còn cao trên tổng số án thụ lý,
trong đó còn nhiều vụ bị hủy nhiều lần qua nhiều cấp xét xử; nhiều vụ án bị
kiến nghị, kháng nghị, kháng cáo do có vi phạm về tố tụng và nội dung…
Những hạn chế, bất cập trên dẫn đến chưa phát huy tốt vai trò của Hội
thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự, từ đó làm cho hiệu quả, mục đích của chế
định Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự không đạt được, thậm chí còn
mang tính hình thức, làm giảm lòng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của
pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Về mặt lý luận, hiện nay vẫn còn ít và thiếu những công trình chuyên
khảo, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận củng
như thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố
tụng dân sự.
Do vậy, thiết nghĩ việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan để tìm ra giải pháp hoàn thiện các quy định về
quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân sự ở
nước ta là vấn đề bức thiết hiện nay, không những có ý nghĩa quan trọng về
mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong tiến trình cải cách tư
pháp hiện nay ở nước ta.
Tất cả những nội dung nhận định, đánh giá như nêu trên là lý do để tác
giả chọn vấn đề “Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng dân
sự thể hiện vai trò, địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân; là cơ sở thực hiện
nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia và nguyên tắc độc lập khi
tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự, nên đã có nhiều
nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở những
phạm vi, mức độ khác nhau.
Đã có những bài viết liên quan đến đề tài này đăng trên các tạp chí
chuyên ngành luật. Điển hình một số tác giả như:
- Khổng Hương Giang (2010), Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình
sự Việt Nam (Luận văn Thạc sỹ Luật), Tp.Hồ Chí Minh. Tác phẩm này nghiên
3
cứu về tiêu chuẩn, địa vị pháp lý, nguyên tắc tham gia tố tụng của Hội thẩm
nhân dân trong tố tụng hình sự. Người viết sẽ vận dụng những nội dung về địa
vị pháp lý, nguyên tắc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân nhân dân nói chung
trong luận văn của mình.
- Lê Thu Hương (1999), “Sự hình thành và phát triển của Chế định Hội
thẩm ở Việt Nam ”, thông tin khoa học pháp lý. Tác phẩm này nghiên cứu
lịch sử hình thành và phát triển của chế định Hội thẩm nhân dân nói chung ở
nước ta, vai trò, địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong các thủ tục tố
tụng qua các thời kỳ, phạm vi tham gia tố tụng của Hội thẩm nhân dân. Người
viết sẽ vận dụng các nội dung về quyền, nghĩa vụ, phạm vi tham gia tố tụng
dân sự của Hội thẩm nhân dân.
- Dương Ngọc Ngưu (2003), “Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong
hoạt động tố tụng – thực trạng và phương hướng đổi mới”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp. Tác phẩm này nghiên cứu vai trò, vị trí của Hội thẩm nhân dân
trong hoạt động tố tụng nói chung và đánh giá thực trạng, phương hướng đổi
mới. Người viết sẽ vận dụng các nội dung về đánh giá thực trạng, củng như
những phương hướng đổi mới, hoàn thiện nói chung vào luận văn.
- Tòa án nhân dân tối cao (1999), “Những yêu cầu và giải pháp nâng
cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ, Hà Nội. Công trình nghiên cứu này tổng hợp những vướng mắc, sự
cần thiết phải nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân, trong đó có
Hội thẩm nhân dân. Đây là cơ sở để người viết vận dụng, định hướng nghiên
cứu trong thực tiễn và rút ra nhận xét đánh giá trong luận văn của mình.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến hoạt động của Hội
thẩm nhân dân nói chung trong tất cả các thủ tục tố tụng, hoặc riêng lĩnh vực
tố tụng hình sự. Tuy nhiên, tất cả những bài viết, công trình nghiên cứu trên
sẽ là nguồn tài liệu quý báu để tác giả tham khảo, vận dụng khi nghiên cứu,
thực hiện đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề về lý
luận và thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam để đề xuất phương hướng hoàn thiện.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ
một số nội dung sau:
- Về mặt lý luận
Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận chung và pháp luật thực
định về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam, nhằm làm sáng tỏ các quy định này.
- Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu những vấn đề về thực tiễn áp dụng quy định quyền, nghĩa
vụ của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự để rút ra những
nhận xét, đánh giá thực tiễn áp dụng. Đồng thời chỉ ra những hạn chế, vướng
mắc trong nhận thức và thực tiễn áp dụng các quy định này.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận, thực tiễn, sẽ đề xuất giải pháp hoàn
thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành. Cụ thể, Luận văn nghiên cứu các
vấn đề như: khái niệm, địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam; vấn đề vận dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ
của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự để tìm ra những hạn
chế, vướng mắc.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: luận văn nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Hội
thẩm nhân dân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam và Luật tổ
chức Tòa án nhân dân hiện hành.
- Phạm vi địa bàn khảo sát: chủ yếu tiến hành khảo sát, thu thập số liệu
thực tế, nghiên cứu các bản án dân sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
- Phạm vi về thời gian: số liệu thu thập sử dụng trong đề tài giới hạn
trong 05 năm, từ năm 2010 đến năm 2014 để đảm bảo mang tính thời sự và
tính thực tiễn cho kết quả nghiên cứu của luận văn.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các vấn đề mà luận văn đặt ra, tác giả dựa trên phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp pháp luật tố tụng. Cụ
thể: phân tích, tổng hợp nội dung các quy định về quyền, nghĩa vụ của Hội
thẩm nhân dân theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân hiện hành, đồng thời so sánh với thực trạng vận dụng trong thực tế
công tác xét xử dân sự sơ thẩm.
5. Giá trị khoa học của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn phân tích, làm sáng tỏ các nội dung về quyền
và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.
Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện quyền
và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự từ đó nhận dạng,
phân tích những tồn tại, hạn chế, tìm ra nguyên nhân để có giải pháp đề xuất
hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác xét xử các vụ dân sự
của Hội thẩm nhân dân.
6. Cơ cấu của Luận văn
Cơ cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, phần nội dung được xây dựng thành 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan về quyền và nghĩa vụ của hội thẩm nhân dân
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2. Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động
xét xử vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng pháp luật.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Mục đích, ý nghĩa tham gia của Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động tố tụng dân sự
1.1.1. Mục đích
Hội thẩm nhân dân là những người được bầu theo quy định của pháp
luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hội
thẩm Tòa án nhân dân gồm có Hội thẩm Tòa án nhân dân Tỉnh, Thành phố
trực thuộc Trung ương; Hội thẩm Tòa án nhân dân Huyện, Quận, Thị xã,
Thành phố trực thuộc Tỉnh (sau đây gọi chung là Hội Thẩm nhân dân) và Hội
thẩm quân nhân trong hệ thống Tòa án quân sự. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân
dân là năm năm theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Chế độ hoạt
động của Hội thẩm nhân dân chủ yếu là kiêm nhiệm, do được lựa chọn bầu ra
trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của
Mặt trận, một số khác là những người đã nghỉ hưu. Trong hoạt động tố tụng
dân sự, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án dân sự,
hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động.
Hội thẩm nhân dân ở các quốc gia khác nhau, có tên gọi và nhiệm vụ
quyền hạn khác nhau nhưng về cơ bản đều là một trong các chủ thể tiến hành
tố tụng bắt buộc, mục đích tham gia tố tụng là đưa tiếng nói của đông đảo
quần chúng tham gia vào hoạt động tư pháp. Ở nước ta, chế định Hội thẩm
nhân dân được hình thành từ ngày đầu khi Nhà nước ta thiết lập bộ máy tư
pháp. Từ đó đến nay, chế định này luôn được củng cố và hoàn thiện nhằm
đảm bảo việc xét xử khách quan, đúng pháp luật1
. Qua nhiều lần cải cách tư
pháp, chế định này ngày càng được khẳng định về mặt lập pháp củng như
trong thực tiễn tố tụng. Các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, trình tự, thủ
tục tuyển chọn, quyền hạn và trách nhiệm, chế độ quản lý, bồi dưỡng nghiệp
vụ và các chế độ chính sách khác đối với Hội thẩm nhân dân được quy định
rõ ràng, cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động của Hội
thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự đến nay còn những hạn chế
1 Dương Ngọc Ngưu (2013), “Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng thực trạng và
phương hướng đổi mới”, Nghiên cứu lập pháp, (04), tr.58-64.
7
nhất định, nhất là trong hoạt động thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Hội
thẩm nhân dân. Từ đó, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò, mục đích
tham gia tố tụng dân sự của Hội thẩm nhân dân.
Về cơ bản, các quan điểm đều thừa nhận chế định Hội thẩm nhân dân
trong pháp luật tố tụng dân sự ở nước ta thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án, đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân tham gia
thực hiện quyền tư pháp2
. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Để đảm bảo tính pháp chế,
dân chủ trong thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp còn quy định cơ chế kiểm
sát hoạt động tư pháp của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, cơ chế
chất vấn, giám sát của Cơ quan quyền lực và Mặt trận tổ quốc Viện Nam,
trong đó, quan trọng nhất là sự tham gia trực tiếp của đại diện nhân dân vào
hoạt động xét xử, đó là các Hội thẩm nhân dân.
Trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng, nếu như
Thẩm phán là người quan tâm nhiều hơn đến việc áp dụng pháp luật thế nào để
giải quyết đúng đắn vụ án thì Hội thẩm có thể xem là những người làm công
tác “chính trị” khi tham gia tố tụng. Về mặt thực tiễn thì Hội thẩm có thể xem
là những người làm công tác “chính trị” khi tham gia tố tụng. Bởi lẽ, thực tế
cuộc sống luôn vận động và thay đổi, pháp luật không phải lúc nào củng theo
kịp cuộc sống. Hội thẩm sống và làm việc trong cộng đồng, “lăn lộn” với thực
tiễn cuộc sống, họ có đủ điều kiện tiếp xúc và thấu hiểu sâu hơn tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy, Hội
thẩm đóng vai trò là người đưa pháp luật gần với thực tiễn hơn, là người làm
cho các bản án, quyết định của Tòa án mang tính “chính trị” hơn. Nói như vậy,
không có nghĩa là Hội thẩm không cần quan tâm đến pháp luật, họ có thể
không là những “chuyên gia pháp lý” nhưng phải có kiến thức cơ bản về các
ngành luật nói chung và luật dân sự, tố tụng dân sự nói riêng để thực thi quyền
lực mà nhân dân giao cho một cách đúng đắn và hiệu quả.
2 Nguyễn Quang Hiền (2004), “Chế định hội thẩm”, Khoa học pháp lý, (25), tr.7-11.
8
Mục đích tham gia tố tụng dân sự của Hội thẩm nhân dân thể hiện ở sự
cân bằng giữa tính cứng nhắc, phổ biến của các quy định pháp luật với tính đa
dạng, phong phú của các tranh chấp cụ thể phát sinh trong đời sống kinh tế -
xã hội. Pháp luật là tổng thể những quy tắc xử sự chung, là những khuôn mẫu
phổ quát nhất, nó không thể điều chỉnh một cách chi tiết tất cả mọi tình
huống, chi tiết trong các quan hệ xã hội. Tham gia điều chỉnh các quan hệ xã
hội còn có các quy phạm xã hội khác như đạo đức, tôn giáo, phong tục tập
quán, thậm chí trong khoa học pháp lý người ta còn đề cập đến vấn đề niềm
tin nội tâm của Thẩm phán khi giải quyết một vụ án. Các Hội thẩm nhân dân
được bầu chọn từ những người công tác, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, là những người có hiểu biết sâu về loại tranh chấp mà họ tham gia xét
xử do có kinh nghiệm thực tiễn liên quan phong phú. Chính vì vậy, các quyết
định của Hội thẩm nhân dân sát với thực tế cuộc sống hơn, giải quyết vấn đề
một cách “thấu tình, đạt lý” hơn.
Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự là nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục tố tụng dân sự là
một trình tự phức tạp, cứng nhắc được tiến hành bởi các chủ thể mang quyền
lực Nhà nước. Người dân với trình độ pháp lý hạn hẹp của mình, khó có thể
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Tính chủ động của những người tham gia tố tụng trong tố
tụng dân sự rất cao nhưng họ vẫn là bên yếu thế so với những người tiến hành
tố tụng. Hội thẩm nhân dân, với tính “nhân dân” của họ, tham gia tố tụng
trong trường hợp này còn có mục đích bảo vệ các bên tham gia tố tụng trong
khuôn khổ pháp luật thực hiện tốt hơn các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình,
tạo nên sự cân bằng trong Hội đồng xét xử giữa các thẩm phán và các đại diện
của nhân dân, làm cho hoạt động xét xử dân sự gần gũi với thực tế cuộc sống
hơn.
Xét xử kịp thời, đúng pháp luật các tranh chấp phát sinh trong nhân dân
góp phần ổn định trật tự xã hội, tạo sự đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng dân
cư, góp phần làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Hoạt động xét
xử của Tòa án còn có một mục đích quan trọng khác là tuyên truyền pháp luật
và hòa giải trong nhân dân. Chính các Hội thẩm nhân dân là những người có
liên hệ mật thiết với quần chúng mới am hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nên họ mới có thể thực hiện tuyên truyền pháp luật, hòa giải tranh chấp